Thứ Bảy, 29 tháng 10, 2016

Triện và con dấu trên ấm trà Tử Sa

Uống trà - thưởng giám ấm Tử Sa - chính là cái thú vui tao nhã của biết bao thế hệ “người văn hóa – người biết thưởng thức cái hay, cái đẹp, cái tinh hoa hội tụ từ đất, trời và con người” , luôn “ khát khao đi tìm CÁI ĐẸP”. Song, CÁI ĐẸP ấy liệu đã thực sự được cảm nhận thấu đáo chưa? Nhân danh một người yêu trà, yêu ấm Tử Sa, tôi mạn phép chia sẻ đôi điều về triện và con dấu trên ấm trà Tử Sa Khái niệm triện và con dấu là gì? Triện - có thể hiểu một cách đơn giản là những văn tự được khắc lên đồ gốm sứ. Nội dung chủ yếu của triện trên ấm Tử Sa là danh tính nghệ nhân. Bên cạnh đó, triện cũng có thể thêm: niên khoản can chi, khoản đường danh trai hiệu, khoản giám định chế tạo, khoản thương hiệu cửa hàng, khoản thi từ cát ngôn (lời thơ và những từ ngữ mang hàm ý may mắn), khoản địa danh, khoản ký sự, khoản chữ số, tranh hình,… Triện chính là bằng chứng quan trọng để giám định niên đại và danh tính người chế tác ấm - là căn cứ để người chơi đồ cổ hiểu được giá trị văn hóa, giúp cho giới thương nhân định giá trị ấm Tử Sa. Con dấu: Nhu cầu ấm Tử Sa và thị hiếu sôi động cùng với sự sáng tạo không ngừng của các nghệ nhân Tử Sa về ấm trà, thư pháp, thi họa và các loại hình văn hóa nghệ thuật… đã tạo ra hàng loạt tác phẩm ấm ngày càng tinh xảo với số lượng lớn. Hệ quả của nó là sự ra đời của phương pháp khắc triện - dần dần được thay thế bởi con dấu ( mục đích để đóng nhanh và thống nhất dạng thức) . Hình dạng con dấu ngày càng trở nên đa dạng phong phú, với dạng hình tròn, hình vuông, hình chữ nhật, hình elip, hình ngói úp, hình quả bí, hình rồng, hình lá,….Con dấu có ý nghĩa vô cùng quan trọng, được xem là tín chứng. Triện và con dấu thông thường luôn đi liền nhau. Triện Tử Sa chia ra làm 7 loại chính: Loại thứ nhất, khắc tên người chế tác, ví như: “ Thời Đại Bân chế” []时大彬制]; “ Mạnh Thần chế”[孟臣制], “ Mạn Sinh chế” [曼生制],.. Loại thứ 2, ngoài tên họ ra còn khắc trai danh, ví như ấm của Khoản Bất Tổn, trên ấm có khắc “ Nghiên Bắc Trai” và “ Khoản Bất Tổn”; Loại thứ 3, khắc tên họ nghệ nhân và thêm thời gian chế tác, như: “ Giáp Thần Thu bát nguyệt" [甲神秋八月] , Thời Đại Bân thủ chế”[时大彬手制]; Loại thứ 4, dùng cho loại ấm hình vuông và người thụ ấm, như: “ Đinh Mão Thượng Nguyên, Vi Đoan Mục tiên sinh khắc” (Thượng Nguyên tên thật là Trần Minh Viễn- nghệ nhân nhà Thanh); Loại thứ 5, trên ấm khắc họ tên người chế tác và triện thể hiện ngụ ý của nghệ nhân, ví dụ: “ Nhất bôi thanh mính, Khả tẩm thi tì, Đại Bân”; Loại thứ 6, khắc thơ, như: chiếc ấm Thiên Kê của Trần Nghiên Viễn có khắc “sơn thi Canh Tý” [ 山诗庚子] Loại thứ 7, khắc chữ vừa có thi vừa có họa. Các triện nói ở trên đại đa số dùng lối chữ viết chữ chân phương là chữ Khải và chữ Triện( Đại Triện và Tiểu Triện). Nghệ thuật khắc triện đã trải qua quá trình dùng dao trúc, dao gang để khắc họa, khắc dấu và đóng dấu. Cách thức khắc triện có 2 dạng chủ yếu: một là khắc họa văn tự và phù hiệu trên ấm ở dạng gốm sống, hai là dùng con dấu đóng lên đồ gốm nung lần thứ nhất. Đến đời nhà Thanh, nghệ thuật khắc họa triện và con dấu bắt đầu được sử dụng rộng rãi, việc sử dụng con dấu ngày càng trở nên phổ biến, đặc biệt với số lượng ấm nhiều. Nghệ thuật khắc triện và con dấu bắt nguồn từ đâu? Ngay từ khi Tử sa được xem như một loại hình nghệ thuật dân gian, trên các tác phẩm chưa hề lưu lại danh khoản của nghệ nhân. Bằng chứng là trên quai ấm Tử sa mà Tư lễ thái giám Ngô Kinh Mạc khai quật được ở Nam Kinh thời vua Gia Tĩnh không có danh khoản. Và mãi cho tới khi Cung Xuân chế tác ra ấm Thụ Anh, ông đã dùng một thứ công cụ có đầu nhọn vẽ lên hai chữ “ Cung Xuân” [供春]trên thân ấm – cạnh quai ấm Thụ Anh. Điều gì khiến ông có ý tưởng này? Như chúng ta đều biết, Cung Xuân vốn là thư đồng sống trong nền văn hóa của văn nhân, ông sớm cảm thụ được ý nghĩa của những lạc khoản (phần đề chữ, ghi tên trên bức họa) trên các tác phẩm thư họa của các văn nhân, mà sáng tạo nên. Đó chính là thời kỳ ban đầu của triện trên ấm Tử sa. Tới thời của Thời Đại Bân, do sự tham gia trực tiếp của các văn nhân nhã sỹ, triện có ghi giáp tử, niên khoản đã bắt đầu được khắc dưới đáy ấm Tử sa, như: “Canh Mậu đông nhật, Thời Đại Bân” [[庚茂冬日,时大彬]. Thời đại Trần Nghiên Viên, khắc triện và con dấu cùng xuất hiện và được khắc dưới đáy ấm, sau đó dần dần chỉ dùng con dấu mà không khắc triện nữa. Thông thường, con dấu ở dưới đáy ấm sẽ khắc toàn bộ họ tên, con dấu ở trong nắp ấm thì không khắc họ. Thời vua Càn Long, sau khi Trần Man Sinh tham gia trà nghệ, triện không chỉ khắc tên nghệ nhân làm ấm nữa, ví như phần đáy của ấm Man Sinh còn khắc trai danh thư Trần Man Sinh như: “Man Đà hoa quán”[曼陀花冠], “A Man Đà thất”[阿曼陀室], hay nghệ nhân Dương Bành khắc con dấu ở quai ấm và bên trong nắp ấm, trên thân ấm được khắc trang trí bằng thư họa và thậm chí khắc cả tên thư họa gia trang trí ấm. Có một số ấm đặc biệt khắc trên miệng ấm ( tường trong) và phần trong đáy ấm có đóng con dấu nghệ nhân. Ngoài ra, ở đáy ấm cũng có dấu và triện (có dấu người định ấm và niên khoản) như: “ Đại Thanh - Càn Long niên chế”[大清乾隆年制]. Triện và con dấu - không chỉ thể hiện su điêu luyện nghệ thuật hết sức tinh xảo, công phu mà còn là sự nghiêm ngặt trong cách thức bày trí về hình thức cũng như nội dung. Đây chính là một nhân tố quan trọng trong việc giám định triện. Nói một cách cụ thể hơn, triện của các danh gia thường có một vài đặc điểm sau: 1, Chế tác con dấu vô cùng cầu kỳ, kỹ lưỡng. Con dấu của các danh gia hoặc do chính tay họ chế hoặc mời chuyên gia điêu khắc giỏi, có phẩm vị nghệ thuật nhất định khắc dấu danh gia đó, đồ làm giả sẽ không thể khắc dấu đạt được trình độ đó, ấm giả thường không toát lên được cái thần sắc nghệ thuật đó. 2, Hình thức con dấu được bày trí hết sức hợp lý. Trên một chiếc ấm khắc dấu 2 mặt hoặc 2 mặt trở lên thì hình thức con dấu thường không giống nhau. Vị trí khắc con dấu được lựa chọn hết sức kỹ lưỡng, luôn đảm bảo sự thống nhất hài hòa với chỉnh thể ấm. Vị trí khắc dấu và khắc chữ phải tương thích, hài hòa. Triện của ấm Tử Sa thường được khắc ở 4 vị trí: trong nắp ấm, đáy ấm, đáy quai ấm hoặc phần bụng ấm. 3, Kích thước triện phải thích hợp. Độ to nhỏ của con dấu, triện và kích thước thân ấm phải có tính hài hòa nhất định. Kích thước triện và kích thước ấm hài hòa, tương thích, tức là ấm lớn triện lớn, ấm nhỏ triện nhỏ; kích thước triện và các bộ phận khắc triện, con dấu cũng phải cân đối; triện ở đáy ấm so với triện ở nắp ấm, quai ấm phải tươn ứng về kích thước, nếu không đạt tiêu chí đó thì nhất định là đồ giả. Triện và con dấu không chỉ có thể dùng để quan sát phân biệt ấm tử sa, mà tự thân nó cũng thể hiện đầy đủ nội hàm nghệ thuật phong phú của thư pháp, văn tự và hội họa,… tạo nên bức họa mang nét độc đáo và đầy hấp dẫn trên ấm Tử Sa, góp phần khẳng định giá trị chiếc ấm, đặc biệt là giá trị thẩm mỹ và văn hóa cùng với công năng của nó trong từng tác phẩm. Dưới đây là một vài mẫu triện và con dấu tiêu biểu:




Triện tự danh trai, hiệu







Con dấu của Cố Cảnh Chu







Con dấu của Lã Nghiêu Thần





Con dấu của Uông Dần Tiên






Con dấu của Vương Dần Xuân







Con dấu của Ngô Vân Căn





 Con dấu của Từ Hán Đường





 Con dấu của Tưởng Dung






Con dấu của Châu Quế Trân ,





Con dấu của Chu Khả Tâm






Sưu tầm internet



Không có nhận xét nào:

Đăng nhận xét