ĐÁY TÀO THANH (Đế Tào Thanh) – 底曹青
Đáy Tào Thanh là tên gọi của một loại đất khoáng quý hiếm trong đất Tử Sa. Già một chút thì có màu tím nâu, non một chút có màu tím xanh, trong có những chấm màu xanh dạng mắt gà.
Ở mỏ quặng số 4 đi lài xuống sâu 100 mét, vài chục mét chia thành một tầng, mỗi tầng đào rộng ra, lại chia ra ba tầng. Đáy Tào Thanh khai thác được từ mỗi tầng gọi là Tào trên, Tào giữa và Tào đáy. Đây là cách gọi tên cho đễ nhớ của cánh thợ mỏ. Chia thành tầng như vậy, nhưng hoàn toàn không phải đất Tử Sa tầng dưới cùng đều là tốt nhất, tầng trên thì không tốt. Đáy Tào Thanh được hình thành một cách có quy luật: đều cần có lớp nham Thạch Anh Hoàng Thạch, kẹp dưới lớp đất mặt của núi, chất đất cứng chắc, tính chứa cát mạnh. Loại đất này chỉ có ở núi Hoàng Long, nguyên nhân là Thạch Anh ở đây phong phú, cũng thành thục nhất, Đáy Tào Thanh bị kẹp giữa lớp nham nền được nuôi dưỡng hàng triệu năm bởi mạch nước chảy sâu hơn mười mét của mạch núi Hoàng Long và sức ép của lớp nahm thạch dày hơn mười mét, nên Đáy Tào Thanh có dạng dẹp, hàm lượng Thạch Anh Vân Mẫu cao, nhìn giống mặt trong của vỏ sò, sáng óng ánh, chất cát cứng, chịu nhiệt cao, nên Đáy Tào Thanh ở mỏ số 4 là thứ đất khoáng tốt nhất do rất chắc mịn, trong đó quý giá hơn hết Đáy Tào Thanh nằm sâu hơn 100 mét của tầng ba.
THIÊN THANH NÊ (ĐẤT THIÊN THANH ) – 天青泥
Truyền thuyết về loại đất Thiên Thanh được sinh ra trong Đầm nước lớn từ mấy trăm năm qua cuối cùng cũng được hé mở màn bí mật vào năm 2002. Do chính quyền thị trấn Đinh Thục muốn quy hoạch lại Đầm nước lớn để tham cứu thử đất Thiên Thanh.
Từ đời Minh đã có ghi chép về đất Thiên Thanh, “ Dương Hâm danh hồ hệ” của Châu Cao Khởi từng ghi chép về loại đất này, xuất hiện ở Lãi Thự thị Trấn Đinh Thục, sau khi nung chín có màu gan lợt, khoáng nguyên chất có màu da trời, xanh nâu, xanh mực, xanh nhạt hoặc xanh mực đậm, chất mịn như mỡ, mặt ngoài như vân trong vỏ sò, sáng óng ánh, kết tinh mịn chắc. Thật ra đất Thiên Thanh có phạm vi khá rộng, theo người xưa truyền miệng, cứ loại đất nào tìm thấy được có màu xanh đều quy về xanh da trời, trong đó bao gồm cả Tử nê, Lục nê, Đoạn nê, nhưng cho đến thập niên 80 phát hiện thấy chủng loại của Giáng Ba nê còn nhiều hơn nữa. Khu vực Đầm nước lớn thực sự sản sinh ra đất Thiên Thanh, mà loại khoáng cộng sinh năm màu là phong phú nhất. Các loại khoáng có nhiều màu sắc trộn lẫn nhau có ở Đầm nước lớn đã thấy xuất hiện từ đời Minh như: Lê Bì sa, Đống Lê, Đàm Bích sa, Lê Bì Hoàng, Đậu Lục Sắc... Lượng đất Thiên Thanh phong phú nằm dưới Đầm nước lớn được nuôi dưỡng bởi nguồn suối dưới đất cả 100 triệu năm, với sức đè nặng của lớp Hoàng Thạch già dày mấy mươi trượng khiến cho đất được nén chặt như mỡ khối.
Vậy là sau hơn 600 năm thất truyền, Thiên Thanh nê lại được thấy ánh mặt trời.
ĐẬU HỒNG ĐOẠN SA – 豆红段砂
Thập niên 80 thế kỷ trước từng khai thác đất non và Bạch Sa Đoạn nê. Khai thác được lượng lớn đất non ở Hoàng Long, nhưng ở đây không chủ yếu sản xuất đất non. Lượng đất gốm non và đất sét vùng chân núi rất phong phú, chất dất dày, độ kết dính cao, chính là chất liệu chính để làm các loại lu lớn.
Chính ở ngay khu vực địa tầng đặc biệt này, dưới lớp Hoàng Thạch non mấy mươi mét là lớp đất non, mà lớp Đậu Hồng Đoạn sa chỉ dày hơn một tấc dính sát lớp Hoàng Thạch lại là chất liệu thượng thừa trong số khoáng cộng sinh quý hiếm. Loại khoáng này được phong hóa bởi dịch nóng của hơi nước dưới đất và sự xâm thực thẩm thấu của lớp Hoàng Thạch từ hàng 100 triệu năm nên mịn chắc như mỡ. Đậu Hồng Đoạn sa là một loại khoáng liệu hiếm có trong số khoáng cộng sinh cực kỳ quý hiếm. Các loại khoáng cộng sinh như Hồng nê, Tử nê, Bạch đoạn, chất sắt đen trong thiên nhiên, Ngân Tỉnh Vân Mẫu khiến cho đất có năm màu trộn lẫn. Dùng cách luyện đất xưa, dùng nhiệt độ cao khiến cho đất hiện màu sa như đậu đỏ, kết cấu hạt tự nhiên óng ánh như ngọc, các hạt cát năm màu như Mã não Hổ phách, như đá quý khiến người chơi không khỏi trầm trồ.
QUẾ HOA SA BẢY MÀU – 七彩桂花砂
Lớp nham Thạch Anh Hoàng Thạch non dày mấy mươi mét, bề mặt có màu vàng nâu đất, dưới sự xâm thực phong hóa hàng trăm triệu năm, lớp nham khoáng có màu huyết sắt gỉ do sự thẩm thấu của lớp Thất Thể sa (đất bảy màu) thiên nhiên nằm sát lớp nham Hoàng Thạch ở tầng dưới. Trong lớp nguyên khoáng chứa các loại đất cộng sinh thuộc nhóm Giáng Ba và Hồng sa, Lục sa, Đoạn sa, Tử sa ... Với sức ép của lớp nham khoáng và sự dưỡng nuôi của nước dưới lòng đất khiến cho bế ngoài của nguyên khoáng giống như vân của vỏ ốc, bảy màu hiện rõ, sạch bóng như mỡ như sáp.
Khả năng tạo hình của đất chín khá ổn định, thủ thuật khác nhau về nhiệt độ lò nung sẽ tạo nên sự biến hóa kỳ diệu cho màu đất. Đường nét, kết cấu của tác phẩm chặt chẽ , lộ rõ các hạt, màu đất bảy màu ngưng kết như ngọc, đây là loại khoáng cực kỳ quý hiếm trong nhóm khoáng cộng sinh ở khu vực núi Hoàng Long.
HUYẾT SA ĐOẠN NGÀ VOI – 象牙血砂段
Cả tấn khoáng ở núi Hoàng Long mới tìm thấy được nửa cân Đoạn ngà voi, đó là laoị khoáng cộng sinh năm màu do các loại khoáng khác như Hồng nê, Tử nê, Bạch sa đoạn ... hợp lại mà thành, trong đó Bạch sa đoạn chiếm tỉ lệ nhiều hơn hết. Bậc thầy Thời Đại Bân nhà Minh đã phát hiện và sử dụng, trong số tác phẩm để đời của ông, ấm “ Biển viên hồ” (ấm tròn dẹp) được lưu giữ trong Cố cung được là bằng Huyết sa đoạn ngà voi. Mấy trăm năm sau đó, do loại đất này quá hiếm nên không còn thấy dùng loại đất này làm ấm nữa.
Huyết sa đoạn ngà voi là loại đất Kép chỉ nê có trong chất đất của đất Lục nê, nguyên khoáng hàm chứa màu cát ngũ sắc, nằm ẩn trong kẽ hở của lớp đất Hoàng thạch giáp nê dày 30 mét, nó ch3 dày 2-3 tấc, tánh dầu của nguyên khoáng đủ, trơn mượt như mỡ đông, mấy mươi năm nay tôi chỉ thu thập được mấy trăm cân, nên có thể làm một số tác phẩm tiêu biểu, để mọi có thể nhìn thấy lại nét đẹp như ngọc, đường vân ngà voi và màu sắc của loại đất quý này.
TỬ LẬT SẮC ( Màu dẻ tím) – 紫栗色
Thiết sắc kim sa, bảy màu hiện rõ, giống như màu nho tím, nên cốt đất tím, cứng chắc. Trong màu sậm như hạt dẻ chín có các hạt năm màu như ẩn như hiện. Bậc thầy Trần Tín Khanh đời Minh đã phát hiện và sử dụng loại khoáng nguyên sinh năm màu này. Ấm “ Tứ phương lăng hoa” được làm từ loại đất này. Khoáng Tử lật sắc có ở khu quặng mỏ số 3 núi Hoàng Long, nguyên khoáng có màu gan tím đỏ đậm, mặt cắt ngang thấy những đường gân đỏ không theo quy luật, chứa cát chứa sắt rất nhiều, nếu hấp thu được nhiệt độ cực cao trong lò nung mới có thể hiện ra màu cát dày dặn chắc mịn của cốt ấm. Đất chín làm thành phẩm hơi khó, độ co rút khoảng 8%, nhiệt độ tối da khoảng 1270.
Tử lật ngũ sắc sa sau khi được phát hiện và sử dụng tử đời Minh, đến nay tôi đả dùng 30 năm để tìm kiếm, cuối cùng công sức bỏ ra không vô ích, hoàn thiện được loại đất quý đã thất truyền từ 600 năm qua, để nó tái hện lại phong cách Tử sa đời Minh.
TUYẾT THIẾT SA – 雪铁砂
Tuyết Thiết Sa là loại khoáng cộng sinh ngũ sắc cực phẩm ở núi Hoàng Long, vào những năm Vạn Lịch đời Minh đã được bậc thầy Thời Đại Bân phát hiện và sử dụng, sau đó mấy trăm năm chưa thấy có tác phẩm nào được làm từ loại đất này, từ đó tung tích của Tuyết Thiết Sa không còn ai tra cứu nữa.
Trong 30 năm sưu tầm khoáng chất, tôi từng xem xét từng ngóc ngách núi Hoàng Long không dưới trăm lần. Có lần mệt quá, ngồi xuống mép đá Hoàng Thạch nghỉ, vô tình nhìn lên trần hang, chợt nhìn thấy có lớp khoáng dày vài tấc dính chặt liền với Hoàng Thạch, đó là loại khoáng do ba màu đất hợp thành, là loại khoáng điển hình được Hồng nê, Lục nê, Tử sa kết hợp thành màu nền, nguyên khoáng chứa một lượng nhỏ Cac hắc nê, đó chính là loại khoáng Tuyết Thiết Sa mà người ta ước ao có được.
Sàng lựa được vài trăm cân, mới biết được loại khoáng này thực sự tồn tại. Đất chín được luyện xong, trải qua nhiệt độ khoảng 1240 độ, màu đỏ Chu thạch biến thành màu đen, Lục nê biến thành các hạt Sa tinh màu trắng. Tử sa và Chu thạch đỏ cùng biến màu trong lò nung làm cốt đất trở thành màu đen trầm của sắt, các hạt Sa tinh trắng ẩn hiện như sao lấp lánh giữa bầu trời đen, điều này khiến cho Tuyết Thiết Sa quý như vàng.
ĐẬU THANH ĐOẠN SA – 豆青段砂
Vùng tiếp giáp phía bắc mỏ số 4 và núi Thanh Long, Đậu Thanh Đoạn sa nằm dưới lớp nham Hoàng Thạch, giữa các kẽ của lớp nham già núi Thanh Long, đã được khai thác và sử dụng từ đời Minh, đặc biệt được bậc thầy Thời Đại Bân phát huy khiến nó trở nên lẫy lừng hơn. Chất đất mịn màng như mỡ, màu như ngọc bích Thanh Điền, nhiệt độ nung trung bình 1200 độ, tính năng tạo hình thượng thừa, khả năng thành phẩm ổn định, tỉ lệ co rút khoảnh 8%, khả năng chịu nhiệt khá cao, các hạt trên thân ấm đầy đặn, đường nét chặt chẽ.
Trữ lượng Đậu Thanh Đoạn Sa cực ít, khu vực tàng trữ và vị trí địa lý khá đặc biệt, qua tìm kiếm nhiều năm, chỉ tìm thấy Đậu Thanh Đoạn Sa ở đoạn đường trước núi, nên nó là loại nguyên khoáng hàng cực phẩm trong số các loại Đoạn nê cực kỳ quý hiếm.
GIÁNG BA HỒNG – 降坡红
Giáng Ba Hồng được tàng trữ giữa lớp nham Hoàng Thạch dày mấy mươi mét ở núi Hoàng Long. Phía trên là nham Hoàng Thạch, giữa là Giáng Ba Hồng có độ dày khoảng 30 cm, phía dưới là lớp vỏ cách núi Thanh Long. Trên được Hoàng Thạch đè ép khiến lớp Giáng BA Hồng ở giữa rắn chắc như sừng, sáng trong rõ đẹp, bóng láng, có thể đơn độc luyện thành đất chín, nhiệt độ nung 1200 độ, độ co rút 10%, màu cát đỏ thẩm như ngọc. Giáng Ba Hồng cực phẩm xuất hiện vào thập niên 90 thế kỷ trước, được phát hiện trong công trình mở rộng, cải tạo dốc núi, xây dựng lại nhà máy xi măng và viện công nghệ Hoàng Long sơn, nên lấy đó đặt tên. Sự khám phá ra Giáng Ba Hồng làm tăng thêm màu sắc, tăng thêm vẻ đẹp cho nguyên khoáng Tử sa.
LONG HUYẾT SA – 龙血砂
Long Huyết Sa trong khu vực Đầm nước lớn núi Hoàng Long còn được gọi là Chu Sa Hồng, Quý Cơ Hồng, Thạch Chu Hồng, từ đời Minh đến nay, người vùng núi thích khai thác loại đất này nhất, vì nó khá cạn. Chu Sa Hồng là loại khoáng cạn nằm cùng với lớp nham Hoàng Thạch, chất đất cứng như đá, lúc thao tác làm ấm dễ bị rã thịt, làm đất chín thì quá nhiều hạt khiến đất rất nhám, nên gây rời rạc dễ nứt, rất khó tạo hình, nguyên khoáng khó đơn độc luyện thành đất chín, chịu nhiệt khá cao, thường khoàng 1180 độ, độ co rút khoảng 10%, màu như huyết Chu Sa đậm, hạt dày đặn, màu tím đậm như chu sắc, đây là vật liệu thượng phẩm để trộn thêm vào các đất thành phẩm khác.
ĐÀO HOA GIÁP – 桃花夹
Phía bắc mỏ số 4 vào những năm70 nằm giáp với nhà máy xi măng thị trấn Đinh Sơn, đoạn đường này là cửa mỏ phụ của khu vực mỏ số 4, Đào Hoa Hồng được tách ra từ trong lớp nham Kết Sa Hỏa dưới lớp nham Hoàng Thạch. Những người thợ mỏ thường gọi là Đào Hoa Giáp, nghĩa là loại đất Đoạn Sa Đào Hoa được tách ra từ giữa các lớp cát kẹp chặt lại với nhau. Được khai thác sử dụng từ đời Minh, cũng được gọi là Lê Bì Sa, Đống Lê Sa, là tinh hoa đất gốm giữa những lớp cát cạn, lớp nguyên khoáng chỉ dày có mấy tấc, lớp vỏ ngoài có màu hồng nhạt, bên trong màu hồng đào, chất đất mịn, độ cứng vừa, tính năng tạo hình rất thích hợp với các loại đất thành phẩm luyện từ nguyên khoáng, độ co rút khoảng 10%, nhiệt độ lò nung trung bình 1270 độ, tỉ lệ thành phẩm cao, ôn hòa như ngọc, mau như Đào đỏ tím Thanh Thủy, là loại khoáng quý hiếm trong nhóm khoáng cộng sinh 5 màu núi Hoàng Long.
Theo tạp chí Trung Quốc Tử Sa – Số 3 – 2012
Bản dịch của Phan Trọng Nghĩa tại Bình Thạnh.
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét