Thứ Tư, 29 tháng 6, 2016

Trà & Đạo - Mối Lương Duyên

Khi nói đến Trà đạo, có lẽ chúng ta muốn biết ngay Trà đạo là gì. Lợi Hưu (Rikyu, 1522 - 1591) người đã đưa nghệ thuật uống trà trở thành Trà đạo, trả lời rất giản dị: “Trà đạo là cách làm cho ta hết khát.” 

Chúng ta khát nước khi uống không đủ, và chúng ta thường khao khát niềm an vui và muốn hòa nhập với sự sâu thẳm của tánh tự nhiên sẵn có nơi mình. Tánh đó vốn rộng lớn bao la, trong sạch vô cùng, an vui vô hạn và tĩnh lặng nhiệm mầu. Chúng ta gọi tánh ấy là tánh chân thật, tâm chân thật (chân tánh hay chân tâm) hay Phật tánh. 
Trà đạo là nghệ thuật pha và uống trà, đưa ta tiếp xúc thẳng với cội nguồn tâm linh ấy. Nguyên tắc của Trà đạo nằm sẵn trong nguyên tắc sống thiền: hòa hợp, trang trọng, tinh sạch và tĩnh lặng. 

Thiền cũng chỉ là một tông phái của Phật giáo, nên các nguyên tắc trên vốn là sự bất khả phân giữa hiện tượng bên ngoài và thế giới bên trong. Sự hòa hợp, trang trọng, tinh sạch và tĩnh lặng của trà thất, của trà chủ (người mời) và trà khách (người được mời) vốn là sự hợp nhất của tâm và cảnh, của thế giới bên ngoài và thế giới bên trong nơi mỗi chúng ta.
 Tô Đông Pha, một thi sĩ nổi tiếng và cũng là một người tinh thông đạo Phật, đã ca ngợi trà có tánh chất tinh khiết và giống như một người có đức hạnh cao quý, trà không sợ bị hư hỏng. Các vị Tăng sĩ Trung Hoa trước đây đã thực hành nghi thức uống trà trước tượng của vị tổ Bồ-đề-đạt-ma theo những cung cách trang trọng, biểu lộ trạng thái an bình, rỗng lặng nhưng linh động của tâm uyên nguyên, tâm ban đầu nơi mỗi chúng ta vốn luôn luôn tinh sạch và tỏa chiếu sự thấy biết chân thật. Nghi thức này cùng với nền văn minh đời nhà Tống bị hủy hoại nặng nề khi người Mông Cổ xâm chiếm và cai trị Trung Hoa. Nhiều hoa trái của nền văn minh đó đã được chuyển sang Nhật Bản, được nuôi dưỡng và đơm hoa. 

Ở các thiền viện thuộc dòng Lâm Tế (Rinzai), các buổi thiền trà được diễn ra một cách nhanh chóng và lặng lẽ. Sáng sớm, các thiền sinh thức dậy vào lúc 3 giờ sáng, vệ sinh cá nhân rồi vào thiền đường. Thiền sinh phụ trách pha trà (trà giả) đã sẵn sàng với các chén trà đã lau sạch bóng cùng ấm trà nóng. Thiền sinh bưng khay đựng chén trà đến trước mỗi hai thiền sinh, cúi đầu chào. Hai thiền sinh chắp tay xá đáp lễ và mỗi người lấy cái chén nhỏ để trước mặt mình. Lần lượt như vậy cho đến khi mọi người đều có chén, thiền sinh phụ trách mời trà đem bình trà đến giữa mỗi hai người, trịnh trọng cúi chào và châm trà. Khi mọi người đã có trà trong chén, một tiếng báo hiệu vang lên, mọi người để tâm vào hơi thở nhẹ nhàng thoải mái, nâng chén trà lên và uống trà hoàn toàn trong tĩnh lặng. 
Các thiền đường dòng Tào Động (Soto) không uống trà vào mỗi buổi sáng như trên mà chỉ vào các dịp đặc biệt trong tháng. Vị thiền sư mời tất cả thiền sinh uống một tách trà quý do một cư sĩ biếu ngài. Trong những dịp ấy, vị thầy thường ân cần nhắc nhở môn sinh nỗ lực tu hành tinh tấn để thâm nhập vào sự kỳ diệu của tâm giải thoát. 

Điều này làm chúng ta nhớ lại truyện các vị vua Nhật Bản ban trà cho quý vị tăng sĩ, như vào năm 729, Thánh Vũ Thiên Hoàng ban trà cho một trăm vị tăng tại cung Nại Lương. Đời sống tu hành của các vị tăng, ni và trà liên hệ với nhau rất mật thiết về nội dung cũng như hình thức. 
Thiền trà nói trên là cách uống trà trong thiền đường, cùng phát triển theo dòng thiền đốn ngộ do ngài Huệ Năng chủ xướng. Đến thế kỷ 15, người Nhật đã tạo ra một nghi thức uống trà đặc biệt ở bên ngoài thiền viện mà chúng ta thấy còn tồn tại cho đến nay. Tuy cách thức có khác nhau, nhưng cũng phản ảnh sự hòa hợp, trang trọng, tinh sạch và tĩnh lặng của Trà đạo. 
Hạnh Ngộ Trà

Thứ Ba, 28 tháng 6, 2016

Danh Trà Trung Hoa - Trà Thái Bình Hầu Khôi (太平猴魁茶)


Thái Bình Hầu Khôi Trà được sản xuất ở vùng Hoàng Sơn, An Huy. Đất đai ở đây ẩm ướt, quanh năm mây mù, do đó búp trà dài, thẳng, mập mạp mà mềm mại, màu xanh biếc, mặt lá phủ 1 lớp lông mịn. Mùi thơm ngát. Cánh trà rất dài, to, dẹt (dài khoảng 5-6cm). Nước trong xanh, hương thơm, hậu vị ngọt thanh.

Trà Thái Bình Hầu Khôi cũng có lịch sử lâu đời và đoạt nhiều giải thưởng:
- 1912 đoạt giải loại trà ưu tú tại hội chợ Nam Kinh.
- 1015 đoạt giải vàng tại hội chợ Panama.
- Giải vàng những năm 1930 tại hội chợ Bolivia.
- Sau giải phóng, năm 1955 được liệt vào danh sách 10 loại trà nổi tiếng nhất Trung Quốc.
- Năm 2004 đoạt danh hiệu "Trà vương" của dòng lục trà, bán đấu giá 50 gram trà có giá 61,000 (Sáu mươi mốt nghìn) Nhân dân tệ.
- Tháng 3 năm 2007, Hồ Cẩm Đào dùng làm quốc lễ tặng cho Putin.







Mời bạn đến hệ thống cửa hàng Hạnh Ngộ Trà để thưởng thức các loại danh trà của chúng tôi đang phân phối.

Thứ Hai, 27 tháng 6, 2016

Danh Trà Trung Hoa - Trà Kim Tuấn Mi -Hồng Trà (金骏眉茶)


Trà Kim Tuấn Mi là một trong những loại hồng trà quý của Trung quốc. Được chế biến thủ công từ những lá trà non của những cây cổ thụ trên đỉnh Vũ Di Sơn. Nước trà óng đậm, vị ngọt thanh mát. 


Phân tích dữ liệu của 50 quốc gia, các chuyên gia thuộc Trung tâm khai thác dữ liệu quốc tế ở Thụy Sĩ nhận thấy ở những quốc gia nào mà người dân uống hồng trà nhiều nhất, tỷ lệ người dân bị hội chứng chuyển hóa ở mức thấp nhất.



Nghiên cứu cũng cho thấy, Uống trà thường xuyên giúp giảm hormone gây stress cortisol , giảm nguy cơ ung thư , giảm tỷ lệ mắc bệnh béo phì .

Các nhà khoa học tin rằng quá trình lên men, vốn biến trà xanh thành đen, có thể giúp sản sinh chất flavonoid tốt cho sức khỏe. Các chuyên gia cũng phân tích mức tiêu thụ hồng trà và nhiều bệnh khác nhau, trong đó có cả bệnh tiểu đường loại 2.

Ireland là nơi người dân uống nhiều hồng trà nhất, với mỗi người uống 2 kg mỗi năm, theo kết quả cuộc nghiên cứu. Tiếp đến là Anh và Thổ Nhĩ Kỳ. Tất cả ba quốc gia này đều có tỷ lệ người dân mắc bệnh tiểu đường thấp hơn các nơi khác khi mà tỷ lệ dùng trà thấp, trong đó có Brazil, Ma Rốc và Mexico.








Mời bạn đến hệ thống cửa hàng Hạnh Ngộ Trà để thưởng thức các loại danh trà của chúng tôi đang phân phối.




Chủ Nhật, 26 tháng 6, 2016

Danh Trà Taiwan -King’s Tea Oolong (Trà OOLong Nhân Sâm -台湾人参茶)


Trà OOLong Nhân Sâm là dòng trà oolong kết hợp với nhân sâm của hãng Ten Ren Tea Taiwan. Còn có tên gọi khác là Trà Số, Trà Vương. 

Dòng trà này được bán chủ yếu ở Mỹ và Canada, đây là sự kết hợp của trà oolong nổi tiếng của Taiwan với nhân sâm, là nhân sâm của Mỹ từ vùng Wisconsin và Virgin.

Trà ooLong Nhân Sâm là sự kết hợp của Trà ooLong và Nhân Sâm nên có hương thơm rất đặc trưng, có vị đậm đà  và béo ngậy của trà olong & vừa có vị ngọt đượm của trà phương Tây, lưu vị ngọt này rất lâu. Trà ooLong Nhân Sâm rất thích hợp để thưởng thức vào buổi chiều tối, sau bữa ăn hoặc trong lúc nghỉ ngơi.
Tác dụng của Trà ooLong Nhân Sâm
– Làm giảm sự hấp thu chất béo và carbohydrate trong cơ thể.
– Hỗ trợ tiêu hóa và làm ấm dạ dày.
– Ngăn chặn sự tăng trưởng của tế bào ung thư, giúp ngăn ngừa bệnh ung thư như ung thư da, ung thư buồng trứng…
– Giúp giảm bớt các triệu chứng của bệnh eczema và bệnh vẩy nến.
– Kích thích cơ thể, giúp khôi phục các mức năng lượng trong cơ thể.
– Nhân sâm có tác dụng bảo vệ gan và tăng cường hệ miễn dịch.
Lưu ý: Không pha Trà oo Long Nhân Sâm với sữa vì protein trong sữa làm giảm các hợp chất trong trà giúp bảo vệ chống lại bệnh tim mạch.









 Mời bạn đến hệ thống cửa hàng Hạnh Ngộ Trà  để thưởng thức các loại danh trà của chúng tôi đang phân phối.


Danh Trà Trung Hoa - Trà Phổ Nhĩ ( 普洱茶 )



Đa dạng về hình thức.

Phổ Nhĩ là loại trà danh tiếng, có lịch sử rất xa xưa, phía Nam tỉnh Vân Nam Trung Quốc giáp với biên giới tỉnh Hà Giang, Việt Nam là cái nôi sản sinh văn hóa trà Phổ Nhĩ. Huyện Vị Xuyên tỉnh Hà Giang vùng núi có độ cao trên 1.300m so với mặt nước biển, khí hậu lý tưởng cho giống trà Shan sinh trưởng tự nhiên. Cây chè cổ thụ mọc thành rừng trên những đỉnh núi đá, loại chè này chứa nhiều hợp chất có lợi cho sức khỏe và cũng chỉ có loại chè này được chọn lọc để chế biến thành chè Phổ Nhĩ. Từ những búp non bánh tẻ của giống chè Shan, chè được hóng nắng hoặc héo máy, trải qua công đoạn vò, ủ để thành Trà Vàng. Sau đó Trà Vàng được lên men, xử lý qua nhiều công đoạn phức tạp và thời gian dài để khai sinh ra trà Phổ Nhĩ. Quá trình bảo quản, lưu kho, sự lên men, trao đổi chất, và chuyển hóa các thành phần tự nhiên trong trà khiến cho loại trà này được ví như đang "sống", mỗi năm tuổi giá trị loại trà này lại tăng lên gấp bội. Trà Phổ Nhĩ thường được coi là thuốc hơn là đồ uống. Trà Phổ Nhĩ có công nghệ chế biến rất khác so với trà thông thường.

+ Quy trình chế biến trà Phổ Nhĩ:a
Trà Vàng > Ủ men -> Làm khô tự nhiên -> Trà Phổ Nhĩ rời -> Ép bánh các loại -> Sấy khô -> Đóng gói bảo quản sản phẩm
Trà Phổ Nhĩ dạng rời: Loại trà này được chế biến theo công nghệ độc đáo qua nhiều công đoạn, ở công đoạn ủ đống là rất quan trọng, lên men tự nhiên.
- Trà Phổ Nhĩ Tổ Yến: Nguyên liệu từ trà Phổ Nhĩ dạng rời đưa vào hấp bằng hơi nước hoặc phun hơi nước nóng làm cho chè mềm dẻo sau đó để trà vào trong khuôn ép., khi định hình thành viên trà thì đem đi sấy khô.
- Trà Phổ Nhĩ bánh: Loại chè này được chế biến theo công nghệ độc đáo tốn khá nhiều thời gian để được thành phẩm của trà, khi trà đạt đến độ men thích hợp màu trà có màu nâu đỏ, thoảng hương mật ong, bánh ép với nhiều kích thước chủng loại khác nhau tùy theo thị hiếu khách hàng. Nhờ quá trình lên men mất nhiều thời gian công phu nên trà Phổ Nhĩ bánh càng để lâu càng quý hiếm và có giá trị đặc biệt.

Từ hàng nghìn năm nay, ở Trung Hoa trà phổ nhĩ là một loại dược phẩm có giá trị cao đã được sự ủng hộ, tôn sùng của nhiều người và rất nhiều lời ca tụng, khen ngợi đã được sách xưa ghi nhận. Người xưa đã đúc kết lại những hiệu quả đặc biệt của trà phổ nhĩ trong việc phòng và và chữa bệnh bao gồm: Lợi gan, sáng mắt, giúp tinh thần tỉnh táo, bổ não, bồi dưỡng sức khoẻ, thoải mái, sảng khoái tinh thần có lợi cho tiêu hoá, giải độc, giảm đầy hơi, thanh nhiệt, tan đờm, tan mỡ, phòng bệnh, trừ bệnh, làm đẹp da.
Có tác dụng đặc biệt trong giảm mỡ, giảm béo, Hạ huyết áp, tốt cho những người mắc huyết áp cao, chống bệnh sơ cứng động mạch, Bảo vệ và bồi dưỡng cho dạ dày, Phòng chống bệnh ung thư. Đời Thanh- Triệu Học Mãn trong cuốn “Bổ sung đại cương về thuốc đông y” năm 1769 đã viết “Tỉnh rượu Phổ Nhĩ đệ nhất, Phổ Nhĩ có lợi cho tiêu hoá, tiêu đờm, bồi dưỡng sức khỏe tăng lực rõ rệt, và có và có đặc tính ôn hoà thanh nhiệt, tan mỡ hạ khí, thông tiết”. Theo truyền thống quá trình trà Phổ Nhĩ từ từ lên men cũng chính là quá trình mà trà Phổ Nhĩ hình thành và nâng cao phẩm chất, chất lượng. Trà Phổ Nhĩ trong quá trình lên men nhân tạo thì chất lượng của trà càng được nâng cao, cũng theo đó mà giá trị của trà cũng được nâng cao.
Do đó, thưởng thức trà Phổ Nhĩ và việc bảo quản trà là hai đặc tính quan trọng..

Phổ Nhĩ Băng Đảo năm 2010

 
Phổ Nhĩ Vân Nam năm 1996


Phổ Nhĩ Rời


Nước  trà màu nâu đỏ 




Mời bạn đến hệ thống cửa hàng Hạnh Ngộ Trà  để thưởng thức các loại danh trà của chúng tôi đang phân phối.

Danh Trà Trung Hoa - Hồng Trà (红 茶)

Xuất xứ: An Huy - Trung Quốc

Theo các nhà y học, mùa đông nên dùng hồng trà, trong hồng trà có chứa lượng đường và protein rất phong phú, giúp giữ lại lượng nhiệt trong cơ thể không bị thoát ra ngoài, tăng cường sức đề kháng vào mùa đông lạnh lẽo, tốt cho tiêu hóa và giảm béo. Một vài địa phương ở Trung Quốc còn có thói quen cho vào hồng trà một số thứ như sữa, đường, vừng, ở Tây Tạng người ta còn cho bơ vào hồng trà để chống lại cái rét băng giá nơi đây.
Nghiên cứu phát hiện ra rằng hồng trà có thể giảm tỷ lệ người bị trúng gió và mắc các bệnh về tim mạch. Vào mùa đông tỷ lệ mắc hai loại bệnh này rất cao, do vậy hãy chuẩn bị cho mình hay những người thân trong gia đình một ấm hồng trà phòng chống căn bệnh nguy hiểm này.
Ngoài ra thường dùng hồng trà làm nước súc miệng hay uống trực tiếp còn phòng chống được bệnh cúm. Hơn nữa hồng trà còn có một tác dụng vô cùng quan trọng, sử dụng lâu ngày có thể phòng chống được căn bệnh loãng xương, ung thư da, do hồng trà là một loại trà lên men mà chất men đó lại rất có lợi cho những người có thể lực và tinh thần yếu, dạ dày hoạt động kém, chính vì vậy mà lượng người sử dụng hồng trà là lớn nhất trên thế giới.





Mời bạn đến hệ thống cửa hàng Hạnh Ngộ Trà  để thưởng thức các loại danh trà của chúng tôi đang phân phối.

Danh trà trung hoa - Bạch Trà ( 福鼎白茶)


Xuất xứ : Phúc Đỉnh - Trung Quốc. 
Trà trắng Phúc Đỉnh thuộc họ Bạch Trà.
Bạch trà là một trong những loại trà rất có lợi cho sức khỏe, thậm chí còn được mệnh danh là chúa tể của các loại Trà.
Vị Thơm ngon dịu ngọt. 
Bạch trà bảo vệ chống lại ung thư, bệnh tim mạch và đột quỵ, nguyên nhân gây tử vong hàng đầu trong thế giới công nghiệp. Bạch trà giúp giảm bớt các triệu chứng của bệnh tật và thúc đẩy quá trình phục hồi. Bạch trà tăng cường các hệ tuần hoàn và hệ miễn dịch cũng như xương, răng, và tạo ra một làn da khỏe mạnh.

Phân loại bạch trà phụ thuộc nhiều vào nguồn nguyên liệu ban đầu. Bốn loại bạch trà được nhiều người biết đến nhất, đó là:
Trà Bạc kim (Silver Needle)
Bạch trà Mẫu đơn (White Peony)
Bạch trà Mi Vạn thọ (Long Life Eyebrow)
Bạch trà Mi Triều cống (Tribute Eyebrow)









Mời bạn đến hệ thống cửa hàng Hạnh Ngộ Trà  để thưởng thức các loại danh trà của chúng tôi đang phân phối.


Danh trà trung hoa - Trà Phượng Hoàng Đơn Tùng ( 凤凰单丛茶)






Xuất xứ : Triều Châu-Trung Quốc

Phượng Hoàng Đơn Tùng Có hương thơm quý phái của hoa lan, vị ngọt nhẹ, có tác dụng chống lão hóa, rất tốt cho những người huyết áp cao,mỡ máu và giúp tiêu hóa tốt.👍👍








Mời bạn đến hệ thống cửa hàng Hạnh Ngộ Trà  để thưởng thức các loại danh trà của chúng tôi đang phân phối.

Danh trà Trung Hoa - Trà Thiết Quan Âm (铁观音茶)



Tương truyền rằng : Tại một làng nọ ở miền núi huyện Quế An của tỉnh Phúc Kiến có tên là Giang Nam, có một ngôi chùa thờ Phật Bà Quan Âm. Trong làng có một người thanh niên rất thành tâm trong việc giữ gìn hương quả cho chùa dù đã bị tàn phá vì chiến tranh. Một hôm chàng trai nọ đã thiếp đi sau khi làm xong việc hương quả và khấn nguyện.Chàng ta mơ thấy Phật Bà hiện về rất cảm kích lòng thành của chàng ta và bảo ra sau miếu lấy "báu vật" về chia sẻ cùng bà con trong làng.

Chàng thanh niên tỉnh giấc và đi ra phía sau miếu tìm kiếm mà chẵng thấy gì ngoại trừ một cây con đang mọc. Chàng ta vẫn bứng mang về nhà mà trồng. Không ngờ sau nầy chàng hái lá pha uống thì cảm thấy có một hương vị rất tuyệt vời và sảng khoái. Sau đó chàng chiết giống cho những người trong làng để trồng và bán đi những nơi khác với tên Thiết Quan Âm Trà.

Trà Thiết Quan Âm màu đẹp tựa hổ phách, hương thơm nhẹ nhàng thanh khiết tự nhiên của hoa Lan, vị đậm đà dịu ngọt lâu tan..
Tác dụng :phòng chống ung thư, tim mạch, viêm khớp sâu răng; Giúp giảm hẳn nguy cơ xơ cứng động mạch, tiểu đường, nhất là béo phì, giúp giảm cân, giảm mỡ máu...còn có tác dụng làm chậm quá trình lão hoá da, ngăn ngừa sự hình thành của tàn nhang và những nếp nhăn.

 

 

Mời bạn đến hệ thống cửa hàng Hạnh Ngộ Trà  để thưởng thức các loại danh trà của chúng tôi đang phân phối.


Danh trà trung hoa - Trà Long Tỉnh (龙井茶)

Long Tỉnh là loại trà xanh ở tỉnh Hàng Châu – Trung Quốc. Nơi đây thiên nhiên rất đặc trưng, khí hậu mát mẻ, nguồn nước dồi dào, do đó trở thành một nơi rất thích hợp cho trà xanh sinh trưởng. Trà Long Tỉnh được sao thủ công, cánh trà khi sao được gấp dẹp lại. Hương thơm dịu nhẹ, có thể tìm được hương đậu phộng luộc hay hương cỏ. Vị trà thanh, nước trà mầu xanh ánh vàng rất hấp dẫn.
Xưa trà Long Tỉnh đã được vua Khang Hy phong là Hòang trà, loại trà biểu trưng cho hoàng đế. Ngày nay, trà Long Tỉnh trở thành một thứ trà rất thời thượng được coi là quốc trà của Trung Quốc và thường xuyên được dùng để mời các vị khách quý cấp quốc gia.

Trà Long Tỉnh vị ngọt mát, thoang thoảng hương thơm..
Trà Long Tỉnh có hàm lượng chất dinh dưỡng rất cao bao gồm Vitamin C, Vitamin E, Axit amin và hơn 24 loại nguyên tố khác..
Tác dụng chống ung thư và các bệnh về tim, nhuận tràng, giúp tỉnh táo, lợi tiểu, tiêu hóa tốt và giải độc, giảm cholesteron, axit béo no và giúp giảm cân. Ngoài ra còn bảo vệ trắng răng, giảm huyết áp, kháng lão trường thọ .

Tây Hồ Long Tỉnh
Là loại trà được trồng gần Tây Hồ - Hàng Châu có diện tích khoảng 168 km². Trước đây trong lịch sử trà long tỉnh trồng tại Tây Hồ được chia làm 4 vùng nhỏ mỗi vùng ra có tên trà riêng là : Sư, Long,Vân và Hổ. Nhưng ngày nay Long Tỉnh Tây Hồ gộp lại còn hai loại trà: Sư Phong Long Tỉnh và Mai Gia Long Tỉnh.
Những tour du lịch của Việt Nam khi đến Hàng Châu thường thường dẫn khách tới Mai Gia Thôn để thưởng thức trà Mai Gia Long Tỉnh.

Sư Phong Long Tỉnh
Một loại trong nhóm Tây Hồ Long Tỉnh, được trồng ở đỉnh Sư Tử. Loại trà này được đánh giá là loại trà có chất lượng cao nhất Trung Quốc, có vị tươi mát, hương thơm nồng và lưu lại rất lâu, có sắc xanh hơi vàng. Lá trà dẹp, màu xanh nhạt.

Mai Gia Ô Long Tỉnh
Một loại trong nhóm Tây Hồ Long Tỉnh. Loại trà này nổi tiếng với lá dẹp màu xanh ngọc bích rất hấp dẫn. Vị thanh tươi, hương thơm dịu phảng phất mùi cỏ thơm.

Trà Long Tỉnh rất chú  trọng vào lúc hái. Loại trà Long Tỉnh thu hoạch vào trước thanh minh ( 10 ngày ) được gọi là Vũ Tiền Long Tỉnh là thượng hạng nhất.
Ngoài vùng Tây Hồ các vùng khác của Chiết Giang cũng trồng Long Tỉnh, như Tiểu Đường Long Tỉnh nhưng chất lượng không bằng khác xa với vùng Tây Hồ.










Mời bạn đến hệ thống cửa hàng Hạnh Ngộ Trà  để thưởng thức các loại danh trà của chúng tôi đang phân phối.

Danh Trà Trung Hoa - Trà Đại Hồng Bào ( 大红袍 茶)



Núi Vũ Di, Tỉnh Phúc Kiến từ ngàn xưa đã có rất nhiều cây trà mọc hoang trên đỉnh núi. Có viên quan huyện Sùng An mắc chứng bệnh chán ăn, người gầy, tay chân mỏi mệt không thuốc nào chữa khỏi. Nghe tin, nhà sư trụ trì Thiên Tân Tự trên núi Vũ Di bèn hái một nắm trà xuống núi, pha trà cho người ốm uống sau nửa tháng thì bệnh lành.

Viên quan huyện khỏi bệnh quyết lên núi vào chùa lễ Phật và có ý muốn xem cây trà quí. Nhà sư đưa viên quan huyện đi một vòng ra sau chùa đến bên cây cổ thụ phủ kín rêu, cành vươn dài nâng tán lá xanh pha sắc tím hồng. Cảm kích trước tấm lòng của vị sư và sự huyền diệu của cây trà quí, viên quan liền cởi chiếc áo bào đỏ xẫm ( Đại Hồng Bào ) đang khoác trên người treo lên cành cây và xin phép nhà sư cho đặt tên cây là Đại Hồng Bào.

Trà Đại Hồng Bào là đặc sản của vùng An Huy – Phúc Kiến Trung Quốc.

Loại trà này cực quí, nó là sản vật quốc gia của Trung Quốc dùng làm quà tặng quốc khách. Đương thời tổng thống Mỹ - Bill Clinton đã được tặng chỉ có 80g.






Mời bạn đến hệ thống cửa hàng Hạnh Ngộ Trà  để thưởng thức các loại danh trà của chúng tôi đang phân phối.

Thứ Bảy, 25 tháng 6, 2016

Các loại đất tử sa


ĐÁY TÀO THANH (Đế Tào Thanh) – 底曹青

Đáy Tào Thanh là tên gọi của một loại đất khoáng quý hiếm trong đất Tử Sa. Già một chút thì có màu tím nâu, non một chút có màu tím xanh, trong có những chấm màu xanh dạng mắt gà.
daitaothanh01_zps5a08d382.pngdaitaothanh02_zps9b1248c9.png

Ở mỏ quặng số 4 đi lài xuống sâu 100 mét, vài chục mét chia thành một tầng, mỗi tầng đào rộng ra, lại chia ra ba tầng. Đáy Tào Thanh khai thác được từ mỗi tầng gọi là Tào trên, Tào giữa và Tào đáy. Đây là cách gọi tên cho đễ nhớ của cánh thợ mỏ. Chia thành tầng như vậy, nhưng hoàn toàn không phải đất Tử Sa tầng dưới cùng đều là tốt nhất, tầng trên thì không tốt. Đáy Tào Thanh được hình thành một cách có quy luật: đều cần có lớp nham Thạch Anh Hoàng Thạch, kẹp dưới lớp đất mặt của núi, chất đất cứng chắc, tính chứa cát mạnh. Loại đất này chỉ có ở núi Hoàng Long, nguyên nhân là Thạch Anh ở đây phong phú, cũng thành thục nhất, Đáy Tào Thanh bị kẹp giữa lớp nham nền được nuôi dưỡng hàng triệu năm bởi mạch nước chảy sâu hơn mười mét của mạch núi Hoàng Long và sức ép của lớp nahm thạch dày hơn mười mét, nên Đáy Tào Thanh có dạng dẹp, hàm lượng Thạch Anh Vân Mẫu cao, nhìn giống mặt trong của vỏ sò, sáng óng ánh, chất cát cứng, chịu nhiệt cao, nên Đáy Tào Thanh ở mỏ số 4 là thứ đất khoáng tốt nhất do rất chắc mịn, trong đó quý giá hơn hết Đáy Tào Thanh nằm sâu hơn 100 mét của tầng ba.

THIÊN THANH NÊ (ĐẤT THIÊN THANH ) – 天青泥

Truyền thuyết về loại đất Thiên Thanh được sinh ra trong Đầm nước lớn từ mấy trăm năm qua cuối cùng cũng được hé mở màn bí mật vào năm 2002. Do chính quyền thị trấn Đinh Thục muốn quy hoạch lại Đầm nước lớn để tham cứu thử đất Thiên Thanh.

thienthanh01_zpsfd6b7c36.pngthienthanh02_zps855ca525.png

Từ đời Minh đã có ghi chép về đất Thiên Thanh, “ Dương Hâm danh hồ hệ” của Châu Cao Khởi từng ghi chép về loại đất này, xuất hiện ở Lãi Thự thị Trấn Đinh Thục, sau khi nung chín có màu gan lợt, khoáng nguyên chất có màu da trời, xanh nâu, xanh mực, xanh nhạt hoặc xanh mực đậm, chất mịn như mỡ, mặt ngoài như vân trong vỏ sò, sáng óng ánh, kết tinh mịn chắc. Thật ra đất Thiên Thanh có phạm vi khá rộng, theo người xưa truyền miệng, cứ loại đất nào tìm thấy được có màu xanh đều quy về xanh da trời, trong đó bao gồm cả Tử nê, Lục nê, Đoạn nê, nhưng cho đến thập niên 80 phát hiện thấy chủng loại của Giáng Ba nê còn nhiều hơn nữa. Khu vực Đầm nước lớn thực sự sản sinh ra đất Thiên Thanh, mà loại khoáng cộng sinh năm màu là phong phú nhất. Các loại khoáng có nhiều màu sắc trộn lẫn nhau có ở Đầm nước lớn đã thấy xuất hiện từ đời Minh như: Lê Bì sa, Đống Lê, Đàm Bích sa, Lê Bì Hoàng, Đậu Lục Sắc... Lượng đất Thiên Thanh phong phú nằm dưới Đầm nước lớn được nuôi dưỡng bởi nguồn suối dưới đất cả 100 triệu năm, với sức đè nặng của lớp Hoàng Thạch già dày mấy mươi trượng khiến cho đất được nén chặt như mỡ khối.

Vậy là sau hơn 600 năm thất truyền, Thiên Thanh nê lại được thấy ánh mặt trời.

ĐẬU HỒNG ĐOẠN SA – 豆红段砂

Thập niên 80 thế kỷ trước từng khai thác đất non và Bạch Sa Đoạn nê. Khai thác được lượng lớn đất non ở Hoàng Long, nhưng ở đây không chủ yếu sản xuất đất non. Lượng đất gốm non và đất sét vùng chân núi rất phong phú, chất dất dày, độ kết dính cao, chính là chất liệu chính để làm các loại lu lớn.

hongdoansa01_zpsd8ba7b2b.pnghongdoansa02_zps9cdbc6d2.png

Chính ở ngay khu vực địa tầng đặc biệt này, dưới lớp Hoàng Thạch non mấy mươi mét là lớp đất non, mà lớp Đậu Hồng Đoạn sa chỉ dày hơn một tấc dính sát lớp Hoàng Thạch lại là chất liệu thượng thừa trong số khoáng cộng sinh quý hiếm. Loại khoáng này được phong hóa bởi dịch nóng của hơi nước dưới đất và sự xâm thực thẩm thấu của lớp Hoàng Thạch từ hàng 100 triệu năm nên mịn chắc như mỡ. Đậu Hồng Đoạn sa là một loại khoáng liệu hiếm có trong số khoáng cộng sinh cực kỳ quý hiếm. Các loại khoáng cộng sinh như Hồng nê, Tử nê, Bạch đoạn, chất sắt đen trong thiên nhiên, Ngân Tỉnh Vân Mẫu khiến cho đất có năm màu trộn lẫn. Dùng cách luyện đất xưa, dùng nhiệt độ cao khiến cho đất hiện màu sa như đậu đỏ, kết cấu hạt tự nhiên óng ánh như ngọc, các hạt cát năm màu như Mã não Hổ phách, như đá quý khiến người chơi không khỏi trầm trồ.

QUẾ HOA SA BẢY MÀU – 七彩桂花砂

Lớp nham Thạch Anh Hoàng Thạch non dày mấy mươi mét, bề mặt có màu vàng nâu đất, dưới sự xâm thực phong hóa hàng trăm triệu năm, lớp nham khoáng có màu huyết sắt gỉ do sự thẩm thấu của lớp Thất Thể sa (đất bảy màu) thiên nhiên nằm sát lớp nham Hoàng Thạch ở tầng dưới. Trong lớp nguyên khoáng chứa các loại đất cộng sinh thuộc nhóm Giáng Ba và Hồng sa, Lục sa, Đoạn sa, Tử sa ... Với sức ép của lớp nham khoáng và sự dưỡng nuôi của nước dưới lòng đất khiến cho bế ngoài của nguyên khoáng giống như vân của vỏ ốc, bảy màu hiện rõ, sạch bóng như mỡ như sáp.

quehoasa01_zps99024472.pngquehoasa02_zpsc5dc2d9c.png

Khả năng tạo hình của đất chín khá ổn định, thủ thuật khác nhau về nhiệt độ lò nung sẽ tạo nên sự biến hóa kỳ diệu cho màu đất. Đường nét, kết cấu của tác phẩm chặt chẽ , lộ rõ các hạt, màu đất bảy màu ngưng kết như ngọc, đây là loại khoáng cực kỳ quý hiếm trong nhóm khoáng cộng sinh ở khu vực núi Hoàng Long.

HUYẾT SA ĐOẠN NGÀ VOI – 象牙血砂段

Cả tấn khoáng ở núi Hoàng Long mới tìm thấy được nửa cân Đoạn ngà voi, đó là laoị khoáng cộng sinh năm màu do các loại khoáng khác như Hồng nê, Tử nê, Bạch sa đoạn ... hợp lại mà thành, trong đó Bạch sa đoạn chiếm tỉ lệ nhiều hơn hết. Bậc thầy Thời Đại Bân nhà Minh đã phát hiện và sử dụng, trong số tác phẩm để đời của ông, ấm “ Biển viên hồ” (ấm tròn dẹp) được lưu giữ trong Cố cung được là bằng Huyết sa đoạn ngà voi. Mấy trăm năm sau đó, do loại đất này quá hiếm nên không còn thấy dùng loại đất này làm ấm nữa.

huyetsadoanngavoi01_zps54d88223.pnghuyetsadoanngavoi02_zps00bc0703.png

Huyết sa đoạn ngà voi là loại đất Kép chỉ nê có trong chất đất của đất Lục nê, nguyên khoáng hàm chứa màu cát ngũ sắc, nằm ẩn trong kẽ hở của lớp đất Hoàng thạch giáp nê dày 30 mét, nó ch3 dày 2-3 tấc, tánh dầu của nguyên khoáng đủ, trơn mượt như mỡ đông, mấy mươi năm nay tôi chỉ thu thập được mấy trăm cân, nên có thể làm một số tác phẩm tiêu biểu, để mọi có thể nhìn thấy lại nét đẹp như ngọc, đường vân ngà voi và màu sắc của loại đất quý này.

TỬ LẬT SẮC ( Màu dẻ tím) – 紫栗色
Thiết sắc kim sa, bảy màu hiện rõ, giống như màu nho tím, nên cốt đất tím, cứng chắc. Trong màu sậm như hạt dẻ chín có các hạt năm màu như ẩn như hiện. Bậc thầy Trần Tín Khanh đời Minh đã phát hiện và sử dụng loại khoáng nguyên sinh năm màu này. Ấm “ Tứ phương lăng hoa” được làm từ loại đất này. Khoáng Tử lật sắc có ở khu quặng mỏ số 3 núi Hoàng Long, nguyên khoáng có màu gan tím đỏ đậm, mặt cắt ngang thấy những đường gân đỏ không theo quy luật, chứa cát chứa sắt rất nhiều, nếu hấp thu được nhiệt độ cực cao trong lò nung mới có thể hiện ra màu cát dày dặn chắc mịn của cốt ấm. Đất chín làm thành phẩm hơi khó, độ co rút khoảng 8%, nhiệt độ tối da khoảng 1270.

tulatsac01_zps24083364.pngtulatsac02_zps830d94d7.png
Tử lật ngũ sắc sa sau khi được phát hiện và sử dụng tử đời Minh, đến nay tôi đả dùng 30 năm để tìm kiếm, cuối cùng công sức bỏ ra không vô ích, hoàn thiện được loại đất quý đã thất truyền từ 600 năm qua, để nó tái hện lại phong cách Tử sa đời Minh.

TUYẾT THIẾT SA – 雪铁砂
Tuyết Thiết Sa là loại khoáng cộng sinh ngũ sắc cực phẩm ở núi Hoàng Long, vào những năm Vạn Lịch đời Minh đã được bậc thầy Thời Đại Bân phát hiện và sử dụng, sau đó mấy trăm năm chưa thấy có tác phẩm nào được làm từ loại đất này, từ đó tung tích của Tuyết Thiết Sa không còn ai tra cứu nữa.

tuyetthietsa01_zps9c244f55.pngtuyetthietsa02_zps0fe01d7e.png

Trong 30 năm sưu tầm khoáng chất, tôi từng xem xét từng ngóc ngách núi Hoàng Long không dưới trăm lần. Có lần mệt quá, ngồi xuống mép đá Hoàng Thạch nghỉ, vô tình nhìn lên trần hang, chợt nhìn thấy có lớp khoáng dày vài tấc dính chặt liền với Hoàng Thạch, đó là loại khoáng do ba màu đất hợp thành, là loại khoáng điển hình được Hồng nê, Lục nê, Tử sa kết hợp thành màu nền, nguyên khoáng chứa một lượng nhỏ Cac hắc nê, đó chính là loại khoáng Tuyết Thiết Sa mà người ta ước ao có được.
Sàng lựa được vài trăm cân, mới biết được loại khoáng này thực sự tồn tại. Đất chín được luyện xong, trải qua nhiệt độ khoảng 1240 độ, màu đỏ Chu thạch biến thành màu đen, Lục nê biến thành các hạt Sa tinh màu trắng. Tử sa và Chu thạch đỏ cùng biến màu trong lò nung làm cốt đất trở thành màu đen trầm của sắt, các hạt Sa tinh trắng ẩn hiện như sao lấp lánh giữa bầu trời đen, điều này khiến cho Tuyết Thiết Sa quý như vàng.

ĐẬU THANH ĐOẠN SA – 豆青段砂

Vùng tiếp giáp phía bắc mỏ số 4 và núi Thanh Long, Đậu Thanh Đoạn sa nằm dưới lớp nham Hoàng Thạch, giữa các kẽ của lớp nham già núi Thanh Long, đã được khai thác và sử dụng từ đời Minh, đặc biệt được bậc thầy Thời Đại Bân phát huy khiến nó trở nên lẫy lừng hơn. Chất đất mịn màng như mỡ, màu như ngọc bích Thanh Điền, nhiệt độ nung trung bình 1200 độ, tính năng tạo hình thượng thừa, khả năng thành phẩm ổn định, tỉ lệ co rút khoảnh 8%, khả năng chịu nhiệt khá cao, các hạt trên thân ấm đầy đặn, đường nét chặt chẽ.

dauthanhdoansa01_zps062ee9f1.pngdauthanhdoansa02_zps919ef0c9.png

Trữ lượng Đậu Thanh Đoạn Sa cực ít, khu vực tàng trữ và vị trí địa lý khá đặc biệt, qua tìm kiếm nhiều năm, chỉ tìm thấy Đậu Thanh Đoạn Sa ở đoạn đường trước núi, nên nó là loại nguyên khoáng hàng cực phẩm trong số các loại Đoạn nê cực kỳ quý hiếm.

GIÁNG BA HỒNG – 降坡红
Giáng Ba Hồng được tàng trữ giữa lớp nham Hoàng Thạch dày mấy mươi mét ở núi Hoàng Long. Phía trên là nham Hoàng Thạch, giữa là Giáng Ba Hồng có độ dày khoảng 30 cm, phía dưới là lớp vỏ cách núi Thanh Long. Trên được Hoàng Thạch đè ép khiến lớp Giáng BA Hồng ở giữa rắn chắc như sừng, sáng trong rõ đẹp, bóng láng, có thể đơn độc luyện thành đất chín, nhiệt độ nung 1200 độ, độ co rút 10%, màu cát đỏ thẩm như ngọc. Giáng Ba Hồng cực phẩm xuất hiện vào thập niên 90 thế kỷ trước, được phát hiện trong công trình mở rộng, cải tạo dốc núi, xây dựng lại nhà máy xi măng và viện công nghệ Hoàng Long sơn, nên lấy đó đặt tên. Sự khám phá ra Giáng Ba Hồng làm tăng thêm màu sắc, tăng thêm vẻ đẹp cho nguyên khoáng Tử sa.

giangbahong01_zps0a2244cb.pnggiangbahong02_zps8fdea3fb.png


LONG HUYẾT SA – 龙血砂
Long Huyết Sa trong khu vực Đầm nước lớn núi Hoàng Long còn được gọi là Chu Sa Hồng, Quý Cơ Hồng, Thạch Chu Hồng, từ đời Minh đến nay, người vùng núi thích khai thác loại đất này nhất, vì nó khá cạn. Chu Sa Hồng là loại khoáng cạn nằm cùng với lớp nham Hoàng Thạch, chất đất cứng như đá, lúc thao tác làm ấm dễ bị rã thịt, làm đất chín thì quá nhiều hạt khiến đất rất nhám, nên gây rời rạc dễ nứt, rất khó tạo hình, nguyên khoáng khó đơn độc luyện thành đất chín, chịu nhiệt khá cao, thường khoàng 1180 độ, độ co rút khoảng 10%, màu như huyết Chu Sa đậm, hạt dày đặn, màu tím đậm như chu sắc, đây là vật liệu thượng phẩm để trộn thêm vào các đất thành phẩm khác.

longhuyetsa01_zps5d5453b6.pnglonghuyetsa02_zps35cacc6c.png


ĐÀO HOA GIÁP – 桃花夹
Phía bắc mỏ số 4 vào những năm70 nằm giáp với nhà máy xi măng thị trấn Đinh Sơn, đoạn đường này là cửa mỏ phụ của khu vực mỏ số 4, Đào Hoa Hồng được tách ra từ trong lớp nham Kết Sa Hỏa dưới lớp nham Hoàng Thạch. Những người thợ mỏ thường  gọi là Đào Hoa Giáp, nghĩa là loại đất Đoạn Sa Đào Hoa được tách ra từ giữa các lớp cát kẹp chặt lại với nhau. Được khai thác sử dụng từ đời Minh, cũng được gọi là Lê Bì Sa, Đống Lê Sa, là tinh hoa đất gốm giữa những lớp cát cạn, lớp nguyên khoáng chỉ dày có mấy tấc, lớp vỏ ngoài có màu hồng nhạt, bên trong màu hồng đào, chất đất mịn, độ cứng vừa, tính năng tạo hình rất thích hợp với các loại đất thành phẩm luyện từ nguyên khoáng, độ co rút khoảng 10%, nhiệt độ lò nung trung bình 1270 độ, tỉ lệ thành phẩm cao, ôn hòa như ngọc, mau như Đào đỏ tím Thanh Thủy, là loại khoáng quý hiếm trong nhóm khoáng cộng sinh 5 màu núi Hoàng Long.

daohoagiap01_zps9246ef03.pngdaohoagiap02_zpsecdd8646.png


Theo tạp chí Trung Quốc Tử Sa – Số 3 – 2012
Bản dịch của Phan Trọng Nghĩa tại Bình Thạnh.