Thứ Ba, 31 tháng 5, 2016

Nghệ Thuật Trang Trí Trên Âm Chén Phương Đông Và Tâm Sự Của Tác Gỉa Gửi Găm

Mãn Giác Thiền Sư đã từng viết
"Cứ tưởng xuân tàn hoa rụng hết
Đem qua sân trước một nhành mai"
Khi con người đã đi đến những chặng đường cuối cùng trong tuần hoàn Sinh - Tử . Ngỡ như trong cái khoảng khắc sinh sinh diệt diệt ấy con người chỉ nghĩ đến sinh niên của mình, nhưng có những thứ đi ngược lại đạo lý thiên định ấy. Vị nghệ thuật luôn gắn liền với vị nhân sinh. Cong người vẫn dùng chút hơi sức cuối cùng của một đời người sôi nổi để lắng mình cảm nhận vẻ đẹp của thiên  nhiên. Thiên nhiên là tất cả những cái gì tạo được niềm tn mong muốn, cũng như ước mơ khát vọng mà con người ta hướng tới. 
Trong phạm vi bài viết này, chúng tôi chỉ muốn đề cập tới một mảng rất nhỏ của nghệ thuật điêu khắc thiên nhiên đó là những hoạ tiết trang trí trong ấm và chén, mang âm hưởng phương đông.


Nói đến “Trang trí”, đầu tiên phải kể đến các họa tiết trang trí. Đó có thể là một hay nhiều mảng màu đơn giản đến các hoa văn phức tạp khác nhau. Một đặc trưng nổi bật của trang trí gốm sứ chính là sự đa dạng, phong phú của nội dung các hoa văn trang trí. Đối với các hoa văn, ngoài yếu tố trang trí, người ta rất quan tâm đến ý nghĩa của nó, đặc biệt là những hoa văn có tính ước lệ như rồng, phượng, được gắn đặt một ý nghĩa nào đó thông dụng trong nhân dân. Hoa văn miêu tả cuộc sống như cảnh sinh hoạt, hay minh họa cho một truyền thuyết của dân tộc, một kỳ tích của các anh hùng, một câu chuyện nào đó trong dân gian được mọi người yêu mến và có ý nghĩa giáo dục, hoa văn còn là cái tâm của người nghệ sĩ, là phần hồn mà người nghệ sĩ thổi vào từng tác phẩm của mình, một hình vẽ đẹp trên một cái chén quý tự khắc sẽ nâng được giá trị của chiếc chén đó lên, ngược lại một nét vẽ ẩu, một dấu mực loang cũng làm hạ giá của một thứ cũng được coi là kiệt tác. 
–  Hoa văn Rồng, Phượng
Hòa mình vào quan niệm truyền thống của người phương Đông, hình tượng con Rồng, Phượng, Kỳ lân là những hoa văn ước lệ xuất hiện khá nhiều trong các sản phẩm gốm truyền thống của Đồng Nai. Các bố cục như “lưỡng Long tranh châu” hay “lưỡng Long chầu Nguyệt” luôn là các đề tài cho việc trang trí sản phấm gốm thờ cúng.
Một đặc trưng của hình tượng Rồng trên gốm sứ chính là biến thể Rồng lá, đây là dạng hoa văn cổ rất hay được áp dụng trên các đố án trang trí bình đèn. Một sản phẩm gốm được sáng tác từ thời phong kiến là bình đèn lộng rồng lá đã áp dụng rất nhuần nhuyễn hoa văn trang trí này. Trong bình, rồng lá có bố cục mềm mại, uyển chuyển và liên tục chạy khắp một vòng của thân bình với nhiều con kết hợp lại. Các mảng lượn lờ đan xen với nhau sao cho bố cục của mảng được rải đều và nâng đỡ nhau để khi lộng thủng bớt phần nền, vẫn còn lại xương đủ cho sự chịu lực của bình. Nghệ nhân thường chạm thủng phần nền làm nổi bật thân Rồng lá để lộ rõ một lối trang trí có đường cong làm chủ đạo. Họa tiết trang trí và phần nền được hai màu men xanh đồng và trắng ta phối lại một cách hài hòa và trầm lặng. Rồng phượng vốn tượng trưng cho bậc đế vương, tượng trưng cho sự xa hoa, sang trọng và quyền lực. Nghệ thuật điểm xuyến của người nghệ sĩ không cao, không thể làm nên thần nên thái của một con rồng một con phượng sao cho chân thực nhất.


  
 – Họa tiết hoa lá
Hoa lá trong trang trí gốm sứ thường hiện diện dưới hai hình thức, đó là hoa lá cổ được người nghệ nhân sưu tầm lại từ vốn cổ của cha ông để lại. Có nhiều dạng hoa lá cổ như hoa Mai, Lan, Cúc, Sen…hoặc chỉ là những chiếc lá được bố cục trong một dải đồ án nhất định. Việc đưa họa tiết cổ vào trang trí đã tạo cho sản phẩm trở nên gần gũi thấm đượm bản sắc dân tộc. Cách bố cục họa tiết hoa lá cổ cộng với sự phối màu hài hòa, trầm, đã tạo cho gốm sự sâu lắng đến vô cùng, nghiêm trang và cao quý.
Ngoài hoa lá cổ, gốm còn sử dụng họa tiết hoa lá do người sáng tác nghiên cứu. Họa tiết thường được chú ý nhiều nhất là hoa Sen, hoa Mai. Trong chiếc liễn hoa Sen một sự tự do, thoải mái cho người sáng tác, những mảng hoa và lá nâng đỡ cái nọ làm nền cho cái kia trên một diện tích hợp lý, tạo ra một bố cục hoàn chỉnh với màu sắc nhẹ nhàng, quyến rũ. Ở một số bố cục khác, lại có sự kết hợp rất khéo giữa Sen và cỏ, những bông Sen trong nhiều hình dáng từ khi mới nở đến lúc đã xòe ra hết cỡ, điều này chứng tỏ người sáng tác đã có nghiên cứu kỹ. Màu sắc của lá sen thường là men xanh đồng, bông sen màu trắng có điểm chút màu hồng để tạo ra sự tinh khiết.
Có một dạng trang trí rất đặc sắc của gốm, đó là đồ án bá hoa. Trong đồ án trang trí này, nghệ nhân sử dụng rất nhiều các loại hoa, hoa Mai, hoa Cúc, hoa Hướng dương, hoa Dâm bụt…tất cả các hoa này, cái to, cái nhỏ chồng lấn nâng đỡ nhau tạo thành một rừng hoa trước mắt người xem. Đây là lối trang trí được sắp xếp rất nhiều màu cho các loài hoa, tuy nhiên, nhờ có mảng lớn nhỏ khác nhau, sự diễn tả tốt của không gian nhờ các mảng chồng lên nhau nên sự phối màu trở nên hài hòa, vui mắt.

Họa tiết động vât
Động vật trong trang trí gốm rất phong phú, ngoài những con vật tưởng tượng như Rồng, Phượng, kỳ Lân, còn có rất nhiều loài vật khác trong tất cả các loại hình của gốm.
Trong gốm tượng tròn, hình tượng nhiều nhất là Voi với sự đa dạng ở các tư thế khác nhau, có con cụp vòi xuống, có con lại đưa vòi lên như đang vẫy gọi bạn. Một loại sản phẩm dùng voi làm hình tượng là đôn voi, đây là sản phẩm đặc trưng của gốm sứ. Nhìn chung, hình tượng voi trong gốm có thân hình khỏe và sinh động trong các tư thế động. Trong một số loại hình, voi còn được trang trí những hoa văn, điều đó đã đưa gốm Biên Hòa có những sản phẩm tiêu biểu, khác biệt với các dòng gốm khác.
Trong nhiều đồ án trang trí trên gốm, hình ảnh Ngựa được thể hiện rất đẹp với dáng vẻ sinh động và thật mềm mại. Dưới nét khắc tài hoa của nghệ nhân, hình ảnh ngựa hiện lên hùng dũng trên đường chạy song cũng thật uyển chuyển, lãng mạn với nhịp điệu của đường nét và mảng khối.
Họa tiết Tôm và Cá được diễn tả rất sinh động trên các sản phẩm gốm. Một chú Tôm đang dùng hai chiếc càng để gắp bông hoa, cho thấy sự quan sát thật tinh tế của người sáng tác. Chỉ bằng những nét khắc đơn giản, con Tôm đã được tả thực một cách vô cùng chính xác. Cách bố cục của Tôm cùng với những thực vật trong lòng tròn đĩa cho người xem cảm nhận một sự chặt chẽ nhưng thật nhẹ nhàng của môi trường dưới nước. Trong sản phẩm này màu men xanh đậm của đĩa đã làm nổi bật mình Tôm màu trắng ta bên cạnh những mảng hoa màu nâu nhạt đóng vai trò trung gian.

Đề tài Cá được khai thác nhiều tập trung ở hình ảnh cá ba đuôi, cá tai tượng. Đĩa trang trí cá trong gốm cho thấy một thân thể cá mềm mại với những cái đuôi lượn lờ trong nước. Ở đây tác giả đã cố ý miêu tả chi tiết vẻ đẹp đặc trưng của cá ba đuôi, những mảng đuôi được phụ họa bằng những nét khắc đã tạo nên sự uyển chuyển, mềm mại làm sao.
Nhân vật văn sĩ Hộ trong tác phẩm đời thường Nam Cao đã khẳng định"Sự bất cẩn trong tất cả trong mọi nghề nghiệp đã là điều không thể chấp nhận được". Sự bất cẩn trong nghệ thuật thật sự là một điều bất lương. 

Chủ Nhật, 29 tháng 5, 2016

ĐẤT TỬ SA LÀ GÌ

 
  Zisha – đất sét đỏ, khoán sản đặc biệt của Trung Quốc. Loại đất này nằm sâu trong những tầng đất trên những sườn đồi và được gọi là “ Đá Trong Đá” . Thành phần khoán chất chủ yếu của nó bao gồm: hydromica, cao lanh, thạch anh, hạt mica và chất sắt nền và có cả silic, mangan, canxi , natri và kali. Là loại đất sét mềm tự nhiên, tinh khiết và không chứa bất kỳ nguyên tố nào có hại cho sức khỏe con người. Chính vì vậy, ấm trà làm bằng đất Tử Sa không có mùi của đất và chứa những lổ nhỏ li ti (khổng khí) có tác dụng cách nhiệt, giữ được hương của trà ngay cả khi dùng ấm pha trà lâu ngày. Chính chất sắt có trong Đất Tử Sa đã tạo ra các ấm có màu sắc khác nhau. Và đặt biệt hơn nữa, Ấm Tử Sa thường được nung ở nhiệt độ trên 1.000 độ C nhưng đất không bị biến dạng nên tạo được nắp ấm rất kín, ấm có độ bóng nước rót nước vào khô ngay và tiếng kêu lại rất thanh.
         Đất tử sa là một loại đất sét rất đặc biệt. Nó được độc quyền sản xuất tại Giang Nam, một tỉnh  ở Trung Quốc.Người ta nói rằng từ thời xa xưa , một ngày nọ có một nhà sư đến Giang Nam. Ông đi quanh khắp thị trấn và la lớn. ” đất sét có thể làm cho mọi người giàu có đây !” Dân làng rất tò mò và đi theo các nhà sư. Họ đi đến cuối làng rồi nhà sư đột nhiên biến mất như làn khói .Tại nơi nhà sư biến mất dân làng tìn thấy loại đất sét có 5 màu rất đẹp. Sau khi nhào nhuyễn và nung loại đất sét đặc biệt này, dân làng tạo ra được những đồ gốm có nhiều màu sắc khác nhau cực kỳ độc đáo . Đó chính là loại đất tử sa ngày nay .
        Mỏ đất tử sa được hình thành từ khoảng 3,5 triệu năm trước, trong thời đại địa chất của kỷ Devon Paleozoi. Ở Trung Quốc, đất tử sa đã được tìm thấy  và được sử dụng khoảng hơn  1000 năm trước. Đất tử sa không giống như các loại đất sét bình thường khác. Nó là sự kết hợp cộng sinh của nhiều loại  khoáng sản từ thiên nhiên bao gồm : đất sét, thạch anh và mica có chất lượng cao .


Đất tử sa còn được gọi là ” Ngũ sắc thổ “, với các màu sắc như : tím, trắng, vàng, đen và xanh lá cây. Những màu sắc tươi sáng, đơn giản nhưng trang nhã.


Các đồ dùng được làm từ Đất tử sa có một bề mặt nhẵn sáng mang theo một số hạt nhỏ, làm cho chúng có hiệu ứng cát. Đó là lý do tại sao Đất tử sa cũng được người Trung Quốc gọi là Zisha  (sha có nghĩa là cát trong tiếng Trung Quốc).
      Các đồ dùng được làm từ Đất tử sa trông rất  mịn màng với độ bóng tự nhiên, nên không cần phải đánh bóng .Và điều tuyệt vời hơn nữa là sau một thời gian dài sử dụng kết cầu bề mặt của vật dụng làm bằng Đất từ sa trở nên ấm áp và nhẵn như ngọc .Đất tử sa không thể pha trộn trực tiếp với nước như các loại đất sét khác nên cũng không thể dùng Đất tử sa để chế tác đồ gồm theo các phương pháp truyền thống như đúc hoặc dùng bàn xoay. Các vật dùng làm từ đất tử sa chỉ có thể được nặn bằng tay ! Nghề thủ công làm đồ gốm từ Đất tử sa đã được phát triển và tích lũy kinh nghiệm ở Trung quốc hàng nghìn năm nay . Đó là lý do tại sao các mặt hàng thủ công được làm bằng Đất tử sa với bàn tay tạo tác của các nghệ nhân được coi như các tác phẩm nghệ thuật có giá trị .
 
sưu tầm

Nhập Môn Trà Cùng Hạnh Ngộ

1) Nguồn gốc của trà
Người Trung Quốc có câu “Trong nhà có 7 thứ: củi, gạo, dầu, muối, tương, dấm, trà”. “Trà” tuy bị xếp vào vị trí cuối cùng trong các nhu yếu phẩm trong cuộc sống thường nhật của con người. Nhưng bởi người Trung Quốc có một tập quán lâu đời là “Ăn xong uống một tách trà”, cho nên Trà có nội hàm văn hóa và lịch sử rất sâu sắc. Dân tộc Hoa Hạ là nguồn gốc của trà và là cái nôi của văn hóa trà, do đó trà đã làm bạn với dân tộc Trung Hoa suốt 5000 năm qua.“Nhất bôi xuân lộ tạm lưu khách, lưỡng dịch thanh phong kỷ dục Tiên” (Tạm dịch: “Một chén trà xuân tạm giữ khách, một cuộc sống thanh bạch làm người ta muốn trở thành Tiên”). Khách tới nhà thì mời trà là truyền thống đẹp của người Trung Hoa.
Nói về nguồn gốc của trà, ở Trung Quốc xưa nay lưu truyền một truyền thuyết về Thần Nông như sau: “Thần Nông nếm thử trăm thứ cỏ, ngày trúng phải 72 thứ độc, nhờ trà mà giải được độc”. Tương truyền tổ tiên Thần Nông của người Trung Quốc có một cái bụng trong suốt như thủy tinh, bất kỳ thứ gì ăn vào cũng đều có thể thấy rõ ràng. Lúc đó, con người đang trong trạng thái nguyên thủy, dù là thịt cá hoa quả đều ăn sống nuốt tươi, nên tất nhiên là thường mắc bệnh. Truyền thuyết kể rằng Thần Nông vì để giúp đỡ loài người, bèn lợi dụng cái bụng thủy tinh của mình để nếm thử trăm thứ cỏ, nhìn xem những thứ đó sau khi ăn vào trong bụng sẽ xảy ra biến hóa như thế nào. Quanh năm suốt tháng ông trèo đèo lội suối, có một ngày, khi Thần Nông gặp một loài cây lá xanh hoa trắng, thì ăn thử lá của loài cây ấy. Thật kỳ lạ, sau khi ăn lá, ông phát hiện trong dạ dày phát sinh biến hóa kỳ diệu. Những chiếc lá ấy chẳng những lưu chuyển trong ruột từ trên xuống dưới, gột tẩy sạch sẽ những thứ đồ ăn thừa, mà sau khi ăn vào miệng còn có mùi hương, cảm giác thơm ngọt. Phát hiện tác dụng giải độc của loại lá cây này, Thần Nông vô cùng mừng rỡ. Thần Nông cho rằng phát hiện ra trà ấy là do Thiên Thần cảm động, niệm tình ông tuổi già tâm thiện, khổ công hái thuốc chữa bệnh cho con người, nên ban tặng ông lá ngọc ấy để cứu giúp chúng sinh. Thế là Thần Nông cảm ơn Trời xanh, đồng thời càng chăm chỉ đi thu thập thảo dược. Sau này, mỗi lần nếm phải cỏ độc, ông dùng loại lá này để giải độc. Bởi loại lá xanh này giống như một vị lương y, kiểm tra và gột tẩy cho cái bụng của Thần Nông, nên ông bèn gọi loại lá xanh ấy là “Tra” (nghĩa là kiểm tra). Sau này người ta biến đổi chữ ấy thành “Trà”. Đó chính là nguồn gốc của Trà.
Trà có tác dụng giải khát, làm tinh thần và trí óc tỉnh táo, lợi tiểu giải độc. Sau đó trà dần dần được khai thác, thu thập và gieo trồng, được người ta dùng làm một loại diệu dược dưỡng sinh. Như thế trà dần dần được con người hiểu rõ, ngoài tác dụng làm thuốc người ta còn dùng nó làm đồ cúng tế, làm đồ ăn thức uống. Sau khi được cải biến nhiều lần qua các thời đại, hình thành loại trà có hương vị mà chúng ta thưởng thức hôm nay. Vì vậy trà là vị thuốc hay mà tổ tiên Thần Nông đã phát hiện, là thiện tâm cảm động trời xanh của ông ấy đã được Trời cao hồi đáp. Thần cố ý để cho Thần Nông phát hiện ra trà lưu lại cho hậu thế, tạo phúc cho nhân loại.
2) Sự phát triển của văn hóa uống trà
Trà được tổ tiên Trung Quốc phát hiện ra, đối với cách thức sử dụng đã trải qua nhiều giai đoạn biến đổi mới có phương thức uống trà “Khai thủy xung bào tán trà” như hôm nay.
Thời thượng cổ tổ tiên Trung Quốc đã dùng trà làm thuốc. Người thời đó cắt cành lá cây hoang, lặt lấy mầm non, đun trong nước, sau đó uống nước, đó chính là nguyên thủy của “Chúc trà pháp”. Như vậy đun ra được nước trà, mùi vị đắng chát, nên ngày xưa trà được gọi là “Rau đắng”.
Đến thời Tần Hán, người ta sáng tạo ra phương pháp đặc chế và sử dụng trà gọi là “Bán trà bán ẩm”, tức là không trực tiếp đun lá chè tươi, mà chế thành các bánh trà, nướng trên lửa, sau đó giã nhỏ nghiền nhuyễn, cho vào nước sôi, sau đó thêm hẹ, gừng, quýt cho điều hòa, gọi là “Trà nướng”.

Đến thời Đường Tống, mọi người chế thành bánh trà, người ta lấy trà chế thành bánh trà, trước khi uống thì lấy từng bánh trà bóp vụn, giã nhuyễn, rồi bỏ vào trong chén, đổ nước sôi, đó chính là “Nghiên cao đoàn trà điểm trà pháp”. Phong tục uống trà rất thịnh hành, đồng thời theo sự phát triển của văn hóa, “uống trà” dần dần trở thành “nếm trà”. Lúc bấy giờ ở hoàng cung, chùa chiền, trong giới các văn nhân học sỹ còn thịnh hành Tiệc trà. Tiệc trà có bầu không khí trang trọng, hoàn cảnh lịch sự tao nhã, lễ tiết nghiêm khắc, mà lại thường dùng trà hảo hạng, lấy nước từ các con suối trong lành nổi tiếng, tuyển chọn dùng các bộ đồ uống trà sang quý lừng danh. Tiệc trà có nội dung đại khái là trước tiên người chủ trì buổi tiệc tự mình mời trà hoặc đích thân chỉ đạo việc mời trà, tỏ ý kính cẩn với khách, sau đó dâng trà, tiếp trà, nghe hương trà, xem sắc trà, nếm vị trà. Qua 3 tuần trà, bèn bình luận đánh giá đẳng cấp của trà, xưng tụng đạo đức của người tạo ra trà ấy, và ngắm cảnh tâm tình, làm văn ngâm thơ, vv…
Đến thời nhà Minh, trực tiếp pha trà trong ấm trà hoặc chén trà, như thế phương thức uống trà trở nên đơn giản thuận tiện cho mọi người. Nhưng cũng theo sự thay đổi của thời đại, người ta càng chú trọng vào cuộc sống gấp gáp, tất cả xuất phát từ hiệu suất công việc. Một số người dùng loại trà ngâm uống liền, hoặc uống các loại trà chăm sóc sức khỏe, phần lớn người ta là “uống trà” chứ không còn “nếm trà” nữa.
3) Văn hóa trà đạo
Thời Đường có người tên là Lục Vũ, thông qua việc quan sát nghiên cứu về trà nhiều năm, đã viết thành một quyển “Trà kinh”, tổng kết ra một danh mục các loại trà, phương pháp chọn trà, đun trà, nếm trà, còn xây dựng cho nghệ thuật uống trà một loại nội hàm văn hóa sâu sắc, hình thành nên trà đạo nguyên sơ. Người đời sau tôn xưng Lục Vũ là “Thánh trà”.
Văn hóa trà đạo có đặc điểm thể hiện truyền thống văn hóa tinh thần phương Đông, là sự kết hợp của “Trà” với “Đạo”.
Lão Tử thời cổ đại từng nói: “Đạo khả Đạo, phi thường Đạo”. (Tạm dịch: Gọi là Đạo cũng được, nhưng là Đạo phi thường; con đường ấy có thể đi nhưng là con đường phi thường). Còn nói:“Đại Đạo phiếm hề, kỳ khả tả hữu” (Tạm dịch: Đại Đạo tràn ngập trong mọi thứ, có thể thao túng mọi thứ). Có thể thấy rằng “Đạo” là vô xứ bất tại. Như vậy “Đạo” thực ra là gì? Trong kinh điển “Trung Dung” nổi tiếng của nhà Nho Trung Quốc có giảng: “Thiên mệnh chi vị tính; suất tính chi vị Đạo” (Tạm dịch: Thiên mệnh là một đặc tính, thuận theo đặc tính ấy là Đạo).
Kỳ thực “Đạo” có ý nghĩa chân chính là cho chúng ta biết rằng: trong vũ trụ mọi sự vật, gồm sự vận chuyển của Thiên thể, sự sinh sôi của loài người, sự thay đổi các triều đại, vòng sinh lão bệnh tử của đời người, chúng đều là theo Đạo mà vận hành, đều là có quy luật nhất định.Thành, Trụ, Hoại, Diệt ấy đều là quy luật của vũ trụ. Cho nên con người có thể “Phản bổn quy chân”, trở về với bản tính tiên thiên, bởi vì bản tính tiên thiên ấy là chân chính, là thiện lương, là liên thông với vũ trụ, như vậy mới có thể đạt tới cảnh giới Thiên nhân hợp nhất, Đạo pháp tự nhiên. Đó chính là “Đạo” mà người tu hành xưa kia thường hay nhắc tới.
Bởi vì “Đạo” thể hiện phép tắc và quy luật của vũ trụ và nhân sinh, nên người Trung Quốc xưa không tùy tiện nói về Đạo, cho rằng ấy là điều vô cùng cao thâm, không thể nói rõ ràng ra được. Người Trung Quốc cận đại đều bị hai chữ “Mê tín” ngăn trở và rời xa “Đạo”. Không như ở Nhật Bản, trà có trà đạo, hoa có hoa đạo, hương có hương đạo, kiếm có kiếm đạo, luyện võ nghệ giao đấu cũng có nhu đạo, đài quyền đạo (teakwondo). Kỳ thực tại Trung Quốc thời cổ đại các ngành các nghề đều có “Đạo”, mọi người cũng đều có tâm cầu Đạo, cho nên người xưa nếm trà cũng có Trà Đạo.
Văn hóa Trà đạo là một loại văn hóa “Trung gian”, lấy trà làm phương tiện truyền đạt, kế thừa tinh thần của văn hóa truyền thống Trung Hoa. Thời Đường có Lưu Trinh Lượng trong tác phẩm “Ẩm trà thập đức” cũng sáng suốt đưa ra: “Dùng trà có thể hành Đạo, dùng trà có thể đạt được chí khí thanh cao”. Như vậy, Trà Đạo là gì?
Bề ngoài mà nói chính là do ở “Trà lễ, trà quy, trà pháp, trà kỹ, trà nghệ, trà tâm” sáu việc này cấu thành nên, gọi là “Trà đạo lục sự”. Tu tập Trà Đạo chính là thông qua trà đạo lục sự ấy mà chứng ngộ được tinh thần của trà đạo. Nhìn bề ngoài thì tu tập Trà Đạo có vẻ là “Kỹ năng”, nhưng cần phải tu tập Trà tâm, tiếp theo còn phải bắt đầu tu tập trà kỹ, cần phải hiểu được đạo lý này mới có thể đàm luận về Trà Đạo được.

1) “Vị đắng” của Trà đạo
Trà thì đắng, nhưng lại là đắng có ý vị, người nếm trà từ mùi vị của trà mà thưởng thức vị đắng của nhân sinh. Phật gia cho rằng, Sinh, Lão, Bệnh, Tử, gặp người mình oán giận, xa người mình yêu thương, cầu mà không được, vv… tất cả đều là khổ, có rất nhiều thứ khổ. Tóm lại, thường tất cả những gì cấu thành sự tồn tại của loài người, tất cả vật chất cùng với tất cả nhân tố tinh thần trong quá trình sinh tồn của loài người đều có thể khiến cho con người ta chuốc lấy “buồn khổ”. Cho nên Phật nói: “Bể khổ vô biên, quay đầu là bờ”‘. Câu này so với câu “Phản bổn quy chân” thực ra là có cùng một đạo lý, vì thế muốn hiểu thấu được đời người, khám phá bí mật của sinh và tử, mới có thể đạt được sự giải thoát khỏi “Khổ”. Đặc tính của Trà cũng là đắng. Lý Thời Trân trong “Bản thảo cương mục” có viết: “Trà đắng mà tính hàn, trong âm có âm, cực kỳ tốt khi dùng để kháng lại tính hỏa, hỏa là trăm bệnh, nhờ vậy trăm bệnh tất có thể được thanh trừ”. Theo đặc tính của trà là trước đắng sau lại ngọt, trong đắng có ngọt, nhờ đó mà hiểu ra được đạo lý làm người: tiết kiệm, đạm bạc, lấy khổ làm vui.
2) Cái đẹp của sự tĩnh lặng hư không của Trà đạo
Trà đạo nghiên cứu “Hòa tĩnh di chân”, lấy “Tĩnh” để đạt tới trạng thái Tâm Không, gột sạch những kiến giải sai lầm, sáng tỏ con đường phải đi để đạt Đạo. Cái “Tĩnh” trong “Tĩnh Hư” này, phải chăng có nghĩa là từ đầu tới cuối cần phải “Tĩnh” để đạt được sự nghiêm túc trang trọng? Đương nhiên không phải như vậy. Nói đến cái “Tĩnh Hư” này, trong văn hóa trà đạo Trung Quốc thực chất là nói về sự tĩnh lặng của thế giới tâm hồn, đến mức tĩnh lặng với mọi hoàn cảnh bên ngoài. Chỉ cần tâm hồn của bản thân không mất đi “Hư tĩnh”, thì uống trà cũng được, nói cười cũng được, nghe nhạc cũng được, xem kịch cũng được, không có gì là không thể được. Trước khi nếm trà, cần buông bỏ những phiền muộn, những điều cố chấp trong lòng, tĩnh tâm lại, bắt đầu tiến vào cảnh giới thẩm mỹ nếm trà, lặng lẽ lĩnh hội sắc của trà, hương của trà, vị của trà, hình tượng của trà… , từ đó mà tĩnh lặng quan sát, nghĩ lại về cuộc sống nhân sinh, bồi dưỡng tâm tính, đạt tới cảnh giới “Tĩnh Không” trong tâm hồn, nhận thức được cái đẹp của “Tĩnh Hư”.
3) Sự “Tầm thường” của Trà đạo
Bậc thầy trà đạo người Nhật Bản tên là Sen no Rikyu từng nói: “Cần phải biết rằng gốc rễ của trà không gì khác hơn là nấu nước châm trà”. Nói như vậy là một câu đã trúng đích. Bản chất của Trà đạo quả thật là từ những chuyện vặt vãnh trong cuộc sống thường ngày mà hiểu được sự huyền bí của vũ trụ và triết lý của nhân sinh. Tu Phật tu Đạo cũng là muốn mọi người thông qua việc “Tu sửa và tinh luyện” từng chút một trong cuộc sống, từ những việc tầm thường nhỏ bé mà triệt ngộ được Đại Đạo. Cho nên người xưa nói: “Chớ vì việc Thiện nhỏ bé mà không làm, chớ vì việc Ác nhỏ bé mà làm”. Không nên bời vì một việc tốt thật nhỏ mà không chịu làm, bởi vì mỗi lần làm một việc thiện sẽ tích được phúc đức. Đương nhiên cũng không nên cho rằng một việc xấu nào đó là nhỏ nhoi mà tùy tiện làm bừa, bởi vì hễ làm điều xấu thì sẽ bị tiêu giảm phúc phận, nếu nghiêm trọng còn có thể bị giảm thọ, hại lây đến cả người nhà. Có lẽ bạn không lập tức nhìn thấy được kết quả, nhưng tích tiểu thành đại, những việc thiện ác nhân quả trên thế gian không thể nào tránh được một ngày nào đó sẽ phải hoàn trả báo ứng.
4) Sự “Buông xả” trong Trà đạo
Nỗi buồn khổ của con người, xét cho cùng là bởi vì “Buông bỏ không được”, cho nên Phật gia giảng “Buông bỏ”. Tu hành cần phải tu buông bỏ tất cả mới có thể nhập Đạo, nếu không thì chỉ phí công vô ích. Buông bỏ tất cả nghĩa là gì? Buông bỏ sự buồn rầu của đời người, buông bỏ Danh, Lợi, Tình của thế gian, buông bỏ các dạng tâm cố chấp, dục vọng, buông bỏ tất cả các loại tâm “Buông xả không được”, buông xả tất cả, thì con người tự nhiên nhẹ nhõm ung dung vô cùng, nhìn thấy trời xanh biển thắm, sơn thanh thủy tú, nhật lệ phong hòa, nguyệt minh tinh lãng. Nếm trà cũng nhấn mạnh đến “Buông bỏ”. Buông bỏ công việc đang phải làm, tranh thủ được nửa ngày nhàn nhã kiếp phù sinh, buông lỏng một chút cái thần kinh đang căng thẳng, nới lỏng một chút cái tâm hồn bị phong kín kia ra. Có câu thơ tuyệt hay rằng: “Phóng hạ diệc phóng hạ, hà xử lai khiên quải? Tố cá vô tâm nhân, tiếu đàm tinh nguyệt đại” (Tạm dịch: Buông là buông bỏ thôi, cần chi phải bận lòng? Làm một người thảnh thơi, tận hưởng trời trăng sao). Mong mọi người đều có thể buông bỏ được mọi thứ, trở thành người có được sự thảnh thơi.

Tu hành Trà Đạo quan trọng nhất là tu tâm dưỡng tính, từ vị đắng của trà mà nhìn thấu được nhân sinh, tĩnh lặng mà xem sự biến hóa của nó, tâm tính linh hoạt kỳ ảo, trong cuộc sống thường ngày thấy được chân tướng sự thật, cuối cùng có thể buông bỏ được sướng khổ của đời người, thấu triệt triết lý của nhân sinh, sự ảo diệu của vũ trụ, từ đó mà phản bổn quy chân (quay trở về nguồn cội). Vì vậy mà Thần đã trao cấp cho con người trong mỗi ngành nghề, trong mỗi loại văn hóa đều có thể giúp người ta tu luyện tâm tính, nâng cao cảnh giới của sinh mệnh. Bởi vì trong mắt của Thần, con người căn bản không phải là sống tại thế gian để làm người, mà là có ý nghĩa rất thâm sâu hàm chứa bên trong. Thần mỗi thời khắc đều cố gắng thức tỉnh con người một cách lặng lẽ, che chở cho con người, hy vọng con người có thể chân chính bước đi trên con đường thành Thần.
Tại thời kỳ Mạt kiếp này, trong thời kỳ giải cứu con người và cấp cho họ Pháp lớn của vũ trụ, cấp cho họ cái thang trở về Trời này, đông đảo những chúng sinh có duyên vẫn cứ mãi chìm nổi trong biển khổ, không hiểu không biết nổi dụng ý thiện lương khổ nhọc của Thần. 

Trà đạo trong văn hóa Trung Hoa

Trà đạo trong văn hóa Trung Hoa
Trung Quốc là quê hương của rất nhiều loại trà. Từ xa xưa, trồng trà và uống trà đã trở thành một phần không thể thiếu trong bất kì gia đình Trung Quốc nào. Cùng với sự tiến bộ và những thay đổi của đời sống, văn hóa, lịch sử. Việc uống trà đã được nâng lên thành thưởng thức trà và đỉnh cao nhất là phát triển thành văn hóa trà đạo.
Trà đạo là một trong những văn hóa lâu đời tại Trung Quốc
Người Trung Quốc có câu “Trong nhà có 7 thứ: củi, gạo, dầu, muối, tương, dấm, trà”. “Trà” tuy bị xếp vào vị trí cuối cùng trong các nhu yếu phẩm trong cuộc sống thường nhật của con người. Nhưng bởi người Trung Quốc có một tập quán lâu đời là “Ăn xong uống một tách trà”, cho nên Trà có nội hàm văn hóa và lịch sử rất sâu sắc. Dân tộc Hoa Hạ là nguồn gốc của trà và là cái nôi của văn hóa trà, do đó trà đã làm bạn với dân tộc Trung Hoa suốt 5000 năm qua. “Nhất bôi xuân lộ tạm lưu khách, lưỡng dịch thanh phong kỷ dục Tiên” (Tạm dịch: “Một chén trà xuân tạm giữ khách, một cuộc sống thanh bạch làm người ta muốn trở thành Tiên”). Khách tới nhà thì mời trà là truyền thống đẹp của người Trung Hoa.
Từ thời nhà Thương – Chu, trà chủ yếu được dùng làm thuốc chữa bệnh, nó chỉ chính thức được coi như một thức uống khi đến thời nhà Hán. Cho đến thời kỳ Tam Quốc Lưỡng Tấn, tục uống trà đã dần hình thành, và được du nhập vào cung đình, trong giới đại sĩ phu và văn nhân, trà được coi là thức uống tuyệt vời nhất để tiếp đãi khách. Đến thời nhà Đường, tục uống trà không những được lan rộng đến mọi tầng lớp nhân dân trong xã hội, mà nó còn được người dân coi như một hoạt động nghệ thuật cần tăng cường sáng tạo, nghiên cứu và thưởng thức.
Từ lâu trà đã trở thành một phần không thể thiếu trong đời sống hằng ngày của người Trung Quốc
Trà Quản (quán trà), thời xưa còn được gọi là Trà Liêu, Trà Tứ, Trà Phố.v..v…, bắt đầu xuất hiện vào thời Đường – Tống và đặc biệt được thịnh hành trong thời Thanh. Thời nhà Thanh, không những số lượng các quán trà xuất hiện ngày càng nhiều, mà cách thức kinh doanh cũng vô cùng linh hoạt. Ngoài việc cung cấp nước trà cho khách hàng, thì các quán trà còn mở thêm nhiều dịch vụ khác như: phục vụ ăn sáng, phục vụ các món ăn vặt, thậm chí có những quán trà còn tính riêng tiền trà và tiền nước, vì thế khách hàng có thể tự mang trà của mình từ nhà đến, và chỉ cần trả một ít tiền nước là được.
Trong quán trà, người ta có thể cùng bạn bè thưởng thức ấm trà, nhưng cũng có thể chỉ ngồi một mình nhâm nhi chén trà; có thể nghỉ ngơi một vài phút, cũng có thể ngồi cả ngày; có thể xem đánh cờ, ngắm hoa tươi, bình sách, chơi chim; cũng có thể trao đổi tin tức, bàn chuyện kinh doanh. Mỗi quán trà đều mang những đặc điểm và hương vị riêng phù hợp với khẩu vị của từng người, vì thế, cho dù giầu sang hay hèn mọn, có học hay vô học, hiền tài hay ngu dốt, thì tất cả bọn họ đều có chung một sở thích đó là đến các quán trà. Trong thời kỳ này, việc “bao” một quán trà đã trở thành một trào lưu trong xã hội, nghỉ ngơi và thưởng thức cái đẹp được người dân coi như một sự hưởng thụ tuyệt vời nhất, việc kết hợp giữa thú uống trà với các hoạt động vui chơi giải trí cũng ngày càng phát triển hơn.